Minh họa: Ngô Lan Hương
Chúng tôi, bốn đứa còn lại đào cái huyệt như cái hố cá nhân, chôn Lương. Lương là thằng dễ thương nhất, bạn chiến đấu và kể cả bạn ngoài đời, giờ đây nó đã ngủ giấc vô cùng, ngủ như đá nằm trong lòng đất giấc miên viễn. Ai có đào hầm rồi lấp lại mới thấy, dù là chất đất gì đi nữa, số đất đào lên khó lòng nén xuống cho hết. Không để cho địch và người chủ ngôi nhà này khám phá ra nơi mai táng, đất dư mang ra vườn rải đều. Cũng may sau ba ngày đánh nhau ác liệt nơi nào cũng có đổ vỡ, vôi vữa tung tóe khắp nơi. Dù làm cách gì cũng thấy chỗ ấy đất có vẻ mới và khang khác thế nào. Tôi nói ý này, thằng Thịnh bảo mầy tưởng tượng hão, ai biết được. Chúng tôi phải lấy cỏ rác, lá khô, lá vàng và một ít vôi gạch vụn trải một lớp, hi vọng vài ngày sau, nếu có mưa thì khó mà phát hiện nơi ấy có một con người nằm. Mộ không nấm rất dễ thất lạc, nhưng chúng tôi tin chắc một câu chuyện đau thương sâu sắc như thế này làm sao quên được? Chỗ hắn nằm là trung điểm gốc khế và cái giếng, phía sau ngôi nhà hai tầng đoạn giữa con đường Lữ Gia, chạy ven theo phía tây thành phố Nha Trang.
Lệnh trên cho rút là hợp lí. Chúng tôi một đơn vị nhỏ, toàn mấy thằng con trai nhà quê xứ Bắc, không nắm được một tí gì về vùng này, bị cô lập ở giữa một biển người xa lạ, thù địch. Đây chỉ là một trận thử lửa để chứng tỏ cho cả thế giới biết rằng nếu muốn quân ta cũng có thể hạ sơn dạo chơi giữa lòng thành phố của chúng được. Chúng tôi bàn, cả bốn đứa phải nhanh chóng thoát ra một lúc. Trang bị thật gọn nhẹ, bỏ lại mọi thứ không cần thiết, thắt lại quai dép, buộc ba lô, tư thế sẵn sàng kéo nhau tới gần cửa ra vào. Hẹn xuất phát như vận động viện chạy cự li ngắn. Tôi tính, phải nuốt 20 mét đường sinh tử này từ hai đến ba giây, khoảng cách chúng thay băng đạn, không được chậm hơn. Loạt đạn trước sắp dứt, tôi hô: “Chạy!”. Cả bốn lao vào chỗ núp bên kia đường đứng lại thở một hơi rồi mới nghe loạt súng thứ hai. Bọn địch không đủ thời gian lắp băng khác. Chúng tôi quay lại nhìn căn nhà phía bên kia đường, nơi đã che chở cho chúng tôi trong mấy ngày qua, và hiện nay bạn tôi đang còn nằm lại. Sau đó chúng tôi thoát khỏi thành phố nhanh chóng, tìm lại được đơn vị và trở lại căn cứ không mấy khó khăn. Tôi chưa thấy ai ham học như Lương. Ba lô hắn luôn luôn có sách giáo khoa. Hắn nói học ôn thực kĩ để khi hết chiến tranh trở về học lại đại học. Hắn sợ bỏ bài vở lâu quá, sau này lớn tuổi khó học. Thằng này ngây thơ hết chỗ nói. Hắn tưởng lên Trường Sơn vào Nam đánh nhau với bọn Mỹ giống như đi chơi, có được sự yên ổn để ôn bài vở. Cuộc chiến cuốn hút chúng tôi đảo lộn, chà xát như cát bờ biển bị sóng vỗ. Làm gì có giây phút yên ổn để tĩnh tâm học hành, với lại sống nay chết mai, ai tính chuyện lâu dài. Tội nghiệp, phải khó nhọc lắm mới mang và bảo vệ được mấy quyển sách dày và nặng như đá, vượt Trường Sơn nắng lửa mưa dầm vào một tỉnh miền Nam trung phần này. Cái ba lô của hắn nặng gấp hai lần của tôi. Ai có đi đường trường mới biết cái gì hơi nặng một chút cũng muốn vất. Đến nỗi mấy cái hạt nút áo tôi còn muốn cắt bớt đi cho nhẹ, thế mà hắn mang theo cả lô sách vở. Sách nước ngoài in trên thứ giấy đặc biệt, dày, trắng, láng và rất nặng. Quyển sách nho nhỏ không dưới hai cân. Bây giờ thì khỏe rồi, cái ba lô, hành trang đi đánh giặc và đi học không còn hành hạ hắn, đè nặng lên đôi vai khẳng kheo, bộ ngực trắng trẻo lộ xương sống xương sườn của thằng con trai hai mươi mốt tuổi ốm o và yếu đuối như con gái nữa. Lúc chôn hắn chúng tôi đặt mấy quyển sách quanh cu cậu, có thằng khóc còn hài hước: “Sướng nhé, xuống dưới đó tha hồ mà ôn tập!” Có lần tôi vô tình mở một quyển sách ra, thấy bên trong có ép một chiếc lá khô, kiểu học trò ép hoa lá kỉ niệm trong lưu bút ngày xanh. Tôi hỏi đùa: “Kỉ niệm một cuộc tình của mầy phải không? “Hắn lắc đầu nói: “Không phải. đó là thứ lá cây thuộc bài. Học trò nhà quê đứa nào cũng tin ép lá cây này trong vở, học bài rất mau thuộc và lâu quên. Lên Trường Sơn tao thấy loại cây này rất nhiều. Tao hái một mớ hạt hết chiến tranh đem về gieo quanh vườn trường cấp một cho bọn học trò hái ép trong vở...” Lần đầu tiên tôi nghe chuyện này. Tôi cười thầm, cho đó là chuyện vớ vẩn. Phi thức tế, không khoa học, thuộc loại mê tín dị đoan. Hắn một thằng sinh viên học khoa học, luôn luôn đầu lớp, trưởng thành và già dặn như người lớn mà tin cũng lạ thực. Sau này thằng Hiền đi phép về Bắc, hắn với Lương ở cùng một xã, chúng tôi nhờ hắn mang kỉ vật và báo tin Lương hi sinh. Hiền cứ cằn nhằn mãi: “Tại sao không báo tin bằng quân bưu lại bắt tao làm công việc khó khăn này? Cho tao lao vào lửa đạn còn hơn... khó quá, tao sợ lắm...” Sau động viên mãi nó mới chịu, nhưng không vui. Lúc trở lại đơn vị nó kể: - Kì dị ma quái lắm chúng mầy ơi! - Sao? - Bước vô nhà hắn, mới thấy mặt tao thì cả nhà òa khóc! Tao không cần phải báo tin, chỉ tường thuật sự việc... Mẹ nó nói, lúc nào hòa bình đến đón bà vào Nam đem nó trở về Bắc hương khói. Sau hòa bình, ai cũng có công việc quan trọng riêng, phải mấy năm sau chúng tôi mới đến đón mẹ Lương vô Nam. Bây giờ được hiên ngang giữa phố xá đông người, dưới ánh mặt trời, thực đáng kiêu hãnh! Thành phố này đông vui và sầm uất hơn trước nhiều. Thật đúng với lời bài hát “Từ trận đánh hôm nay ta xây lại bằng mười” Nhà cửa phố xá mở mang to đẹp. Tôi hồi tưởng lại tết Mậu Thân năm 68, buổi chiều trước khi xuất kích đánh vào thành phố, tại một vạt rừng thưa, chúng tôi được phổ biến thêm một lần nữa bản đồ Nha Trang. Đây là tấm bản đồ của bọn Mỹ phát cho lính ngụy do ta thu được, thật đúng là loại bản đồ quân sự, nghe nói chúng cập nhật hàng năm. Bản đồ in rất rõ và có nhiều chi tiết, đến nỗi một cái nhà bếp, cái chuồng lợn cũng thấy ghi chú. Con đường mà chúng tôi tiếp cận và băng qua tiến chiếm Nha Trang là một con đường mới mở nằm ở phía tây thành phố, đường tiếp cận với một vùng gọi là Đồng Nai, đồng tiếp giáp với núi thấp, vào sâu là vùng núi Đồng Bò, một căn cứ quan trọng. Lâu nay chúng tôi học trên sa bàn đã nhẵn địa hình địa vật vùng này. Chúng tôi ghi nhớ tên con đường là Lữ Gia. Giải phóng rồi cách mạng làm chủ đất nước, một loạt danh nhân thuộc thế hệ cũ không còn hợp thời nữa bị bỏ đi, thay vào tên mới. Lữ Gia ngày trước đổi thành Lê Hồng Phong. Lạ quá, chúng tôi nghĩ đúng là con đường ấy, thế nhưng giờ đây nó khác xa cái lúc chúng tôi băng qua và băng về trong đêm đầy ánh lửa đạn. Cái nhà ngày trước chúng tôi cố thủ đánh nhau với địch ba ngày đã bị phá. Nơi ấy người ta xây dựng lên ngôi trường cấp một. Chúng tôi vẫn còn hoài nghi, đi vào xem, quả đúng là đây. Cây khế và cái giếng không thể lầm lẫn được. Chỉ có điều mảnh đất chúng tôi chôn Lương giờ đây là một khu vườn hoa. Giờ đó học sinh đã ra về, còn lại một ông lão làm bảo vệ đang ở ngaòi vườn làm cỏ. Ông lão tưởng chúng tôi là khách tham quan, chào hỏi qua loa xong vẫn ngồi xuống nhổ cỏ. Tôi làm quen: “Chiều rồi nghỉ tay uống nước đi chớ bác Hai?” Ông lão vẫn không chịu dừng tay nhổ cỏ, nói như phân bua: “Cây cỏ gì lạ quá... nhổ mãi không hết?...” Tôi hỏi: - Cây cỏ gì? Ông lão nói: - Hoa trồng chăm sóc tưới nước thì không chịu tươi tốt mà cái thứ cây cỏ gì lạ quá, cuốc bao nhiêu, dẫy bao nhiêu cũng cứ mọc. Có khi tức mình tôi nhổ cả gốc rễ lên, ai ngờ mấy ngày sau chúng lại mọc tràn lan, chiếm hết phân tro. Tôi hỏi lại một lần nữa: - Cỏ gì đó bác Hai? - Thứ cây này không có tên, chỉ nghe bọn học trò gọi là “cây thuộc bài”. Đứa nào cũng hái lá ép trong vở, tin nhờ đó học bài mau thuộc. Vùng này xưa không có, sao không biết gần đây nó mọc ghê quá... Tôi giật mình chợt nhớ đến lần mở sách ra thấy ép lá cây học thuộc bài, tôi lẩm bẩm: “À thì ra lá cây thuộc bài”. Ông lão làm vườn: “Ông cũng biết loại lá cây này sao?” Tôi nói: - Học sinh nào cũng biết, cũng tin. Thuở nhỏ tôi cũng làm thế... Tôi chợt nhớ lại ngày trước Lương từng nói đã hái hạt cây loại này tính đêm về quê gieo. Hôm chúng tôi chôn, có thể trong áo quần hắn còn vương vải loại hạt cây này, giờ được dịp phát triển đúng với ý định của hắn lúc còn ở Trường Sơn, chỉ khác ngôi trường này không phải là quê hương thôi. Trong vườn có nhiều luống hoa hồng. Tôi quan sát thấy ngay trên nơi chôn nó có một khóm hồng đỏ thắm, cánh hoa sáng lên gương. Tôi đến bên mân mê cánh hồng, ông lão nói: “Lạ lắm, trước nó là gốc hồng bạch sao bứng lên trồng nơi ấy lại hóa thành hồng đỏ thắm?” Tôi thì tôi hiểu... Chúng tôi bàn bạc với ban giám hiệu. Họ dành cho gia đình mọi sự giúp đỡ. Hôm sau chúng tôi thuê người bốc mộ. Hiệu trưởng cho học sinh nghỉ học, không hiểu sao có mấy đứa bé hay tin tới xem, đuổi mãi không chịu đi. Khi người làm công giơ chiếc cuốc lên tính bổ xuống gốc hồng thì bà mẹ Lương hét lên: - Dừng lại! Để bứng bụi hồng sang trồng nơi khác. Một lúc sau bà lại đổi ý, nói: - Thôi không bốc nữa, để em nó nằm lại trên đất học này cũng được. Khi còn sống nó là thằng rất hiếu học. Buổi trưa học quên cả ăn cơm. Tối lại lên gác chong đèn ngồi học quên cả muỗi đốt... Tôi tính kể lại chuyện Lương đem sách vở lên Trường Sơn ôn bài, sau thấy kỉ niệm đó đau xót quá, không kể. Mẹ Lương tiếp: “Em nó còn rất mê trồng cây. Giờ đây nó được an nghỉ giữa chốn học đường. Ngày ngày được nghe tiếng trẻ con học bài, tiếng chơi đùa của bọn trẻ con. Mỗi sáng được thức dậy trong hương hồng thơm ngát, còn đâu bằng? Đất nước độc lập thống nhất rồi, đâu chẳng là quê hương?” T.T.H (133/03-2000)
|
HÀ KHÁNH LINH
Truyện
Tôi kịp đến Campuchia lần đầu khi bộ đội Việt Nam vừa đánh trả bọn Khmer đỏ Polpot tràn qua xâm lược các tỉnh biên giới Tây Nam nước Việt Nam ta giết hại nhiều đồng bào ta, nhất là tại Ba Chúc - An Giang có hơn 3000 người dân bị giết hại!
LÊ HOÀNG NGÂN
Đoàn người lại đứng trên đèo gọi anh, một đoàn người áo tơi lam lũ đang đứng trên đèo gọi anh.
NGÔ HỮU KHOA
Hải quay về. Xe khách có chút ọc ạch nhưng đường rộng, nền bê tông phẳng lỳ lại thẳng tắp nên tốc độ gần như không thay đổi, đều đều gần trăm km/h.
LÊ HOÀNH PHÒ
Tiếng máy điều hòa chạy đều đều. Nơi góc phòng, có một người chăm chú coi lại đề cương thực tập.
DUY NHIÊN
Như vừa lội qua một giấc mơ, giấc mơ chắp nối bao thân phận bên đời. Giấc mơ chập chờn nhớ quên lẫn lộn, Như muốn xóa đi gam màu xám và tô lên niềm hy vọng.
PHẠM XUÂN PHỤNG
Tôi đang dính vào thành xe. Dính, chứ không phải đứng, không phải nằm, không phải ngồi. Phần thắt lưng dính vào mép trên thành xe.
DƯƠNG GIAO LINH
Đêm nay trời có mưa?
Giao ngước mắt nhìn những ngôi sao đang thi nhau lấp lánh trên khoảng trời đen sẫm. Chỉ có góc này Giao mới nhìn được những ngôi sao đêm. Tiếng ai huýt gió vọng vào tai nghe u lạnh. Lại một đêm nữa Giao không ngủ…
VŨ THANH LỊCH
Dim chạy hùng hục để vắt kiệt năng lượng. Không nhìn đường, không đếm xỉa các vật cản. Đến gốc cây thị trước Đền Đá chân vẫn không dừng.
ĐINH PHƯƠNG
1.
Bác tôi về thị trấn sống vào một ngày cuối tháng tư nóng đến sớm, nóng nung người, những con chó ghẻ thè lè lưỡi uể oải nhìn nhau lúc bác đi qua chẳng buồn sủa. Bác đi tự tin, bác biết nơi mình đang đến - như cuộc đời bác vẫn vậy - luôn luôn biết điều mình cần.
NGUYỄN THỊ ẤM
Người ta vẫn tưởng sắc đẹp của đàn bà là vô tội. Đúng là vô tội. Nhưng đẹp quá thì phải xét lại.
BẢO THƯƠNG
Kelvin, con đã về rồi à?
NGUYỄN THỊ DUYÊN SANH
1.
Lên mười tuổi, tôi mới biết bà ngoại không phải là họ hàng. Điều này khiến tôi buồn bã tủi thân đến bỏ cả ăn uống học hành dù đang chuẩn bị thi hết cấp tiểu học.
HOÀNG CÔNG DANH
Ta sẽ không nhìn thấy gì cho đến khi chui ra khỏi nhà ga. Chúng tôi thường nói với nhau như vậy mỗi khi đi tàu điện ngầm. Đấy là chuyện hơn mười năm trước, khi tôi và anh cùng học chung ở thủ đô Minsk của Belarus.
TRIỀU NGUYÊN
Dãy phố cổ nằm hai bên đường Thuận Hòa, nơi bày bán từ cái đinh ốc xe đạp đến những sợi dây chuyền vàng đính ngọc thạch trổ tượng Quan Âm và cả Đức mẹ Maria, treo trên các giá lót nỉ màu hổ phách lóe sáng trong tủ kính, bỗng nhộn lên bởi cái tin từ cửa hiệu cầm đồ Hòa Lợi truyền ra: Mẹ của ông chủ hiệu này đang hấp hối.
NGUYÊN NGUYÊN
Tôi nghe thấy tiếng bước chân của bóng tối, bên thềm cửa. Chút ánh sáng của ngày tàn bị hút tuột xuống cuối đường hầm tăm tối, âm thanh vọng lại nghe khô khốc và buồn bã vô cùng.
TRẦN HUIỀN ÂN
Năm tôi mười tuổi, buổi tối ngày giỗ Dì Sơ, mẹ tôi với nét mặt trang nghiêm mà xúc động nói cho tôi biết Dì Sơ chính là người sinh ra tôi.
NGUYỄN QUANG HÀ
DƯƠNG GIAO LINH
Bước chân Sinh sàn sạt trên đường cát giữa trưa oi nồng, thời tiết qua một trận mưa nước chưa thấm đất sau những ngày nắng nóng kéo dài.
MINH NGỌC
NGUYỄN THU PHƯƠNG
Tôi biết bố tôi tận đến lúc này vẫn không thể vui, nhưng rốt cuộc ông đã liên tiếp nhân nhượng tôi.