Cha của thi sĩ Bích Khê, cụ Lê Quang Dục, là bậc túc nho ở tỉnh, ông qua đời khi Bích Khê còn ở tuổi vị thành niên. Mẹ của thi sĩ Bích Khê, cụ bà Phạm Thị Đoan, vốn là con gái nhà danh giá ở vùng nam trung phần nước Việt. Từ nhỏ Bích Khê đã thông minh, tính tình cường ký. Càng lớn, chàng càng tỏ ra hào hiệp, giúp người hết lòng. “Bao nhiêu tiền cha mẹ và anh chị cho, người nghèo hưởng gần hết. Những người đói rách, thiếu thốn vào đến cổng nhà là hỏi thăm “Cậu Chín”. Hễ có cậu Chín, họ có áo quần cũ, có cơm ăn, có tiền xài…”1. Nhưng sự hào hiệp của chàng thi sĩ có khi nhận lại trái đắng. Sau khi bị người bạn chí thân bội phản, Bích Khê về lại Thu Xà, dựng một căn phòng trong chái nhà trên. Từ đó, chàng đi vào cõi thơ, đi vào thi đàn Việt Nam và thướng vượt đến cõi cao diệu của thần thức. Đương thời, Hàn Mặc Tử nhìn thấy: “Bích Khê, thi sĩ thần linh”.
Theo lời kể của bà Lê Thị Ngọc Sương - chị ruột của nhà thơ Bích Khê: “Bích Khê là người em thứ chín trong số chín anh chị em có sẵn trong huyết quản một dòng máu anh dũng. Ông nội Bích Khê - ông nội chúng tôi - làm quan dưới triều Tự Đức đã tuẫn tử để khỏi phải cộng tác với một vị đại thần có quyền “tiền trảm hậu tấu” đã từng lãnh trách nhiệm đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhà chí sĩ Phan Đình Phùng. Cha chúng tôi đã từng tham dự vào phong trào Đông Du giữa lúc lòng yêu nước đương hướng tất cả sĩ phu chân chính vào những cuộc vận động dân tộc chống thực dân giành độc lập cho đất nước”2. Thi sĩ Bích Khê đã lớn lên trong mái ấm gia đình với tinh thần yêu nước và khí tiết đáng khâm phục như vậy. Dễ hiểu vì sao lúc cuối đời, khi đang nằm trên giường bệnh, năm 1945, chàng thi sĩ hay tin khởi nghĩa, chàng mừng quá, nằm trên ghế bố bảo người nhà khiêng ra cửa đón phong trào đương lên. Cách mạng tháng Tám 1945 khiến lòng chàng thấy yêu đời hết sức, chàng nói với chị Ngọc Sương: “Em chưa muốn chết! Em yêu đời quá”3.
Căn tính thi ca của Bích Khê được hun đúc trong khí tiết truyền thừa qua nhiều thế hệ; từ ông, cha cho đến các anh chị trong gia đình. Theo nhà thơ Thanh Thảo, gia đình thi sĩ Bích Khê: một gia đình yêu nước và cách mạng. “Ông nội Bích Khê là Lê Trọng Khanh, là người đỗ đạt, từng là tri phủ Phủ Lý (Hà Nam), nhưng ông đã từ quan về quê ở Nghĩa Hành (Quảng Ngãi) do tư tưởng bất hợp tác với Pháp. Trùm Việt gian, đại thần Nguyễn Thân hồi đó biết Lê Trọng Khanh là người có uy tín, có khí tiết nên dụ dỗ ông ra làm quan. Biết được dã tâm này của Nguyễn Thân, ông Khanh đã uống thuốc độc tự tử, quyết nêu cao tiết tháo, không đứng cùng phía với bọn bán nước”4. Không chỉ ông mà cha cũng như anh chị em của thi sĩ Bích Khê đều có lòng yêu nước và giữ đúng tiết tháo gia phong. Cha của Bích Khê - cụ Lê Quang Dục - là nhà nho sống đời thanh bần không hợp tác với Pháp; chị của Bích Khê - bà Lê Thị Ngọc Sương - hoạt động cách mạng từ niên thiếu, được cụ Phan Bội Châu nhận làm con nuôi. Ngoài ra các anh như Lê Quang Khâm, Lê Quang Hường đều tham gia cách mạng, hay như ông anh Lê Quang Thuần có bốn người con đi tập kết.
Ngay từ nhỏ, chàng thi sĩ đã bẩm thụ khí tiết gia đình. Sống trong tình cảnh thuộc địa, ngay từ lúc thiếu niên, Bích Khê không khỏi phải đối diện nhiều chiêm nghiệm về hiện hữu. Trong số những chiêm nghiệm về cuộc đời ở tuổi niên thiếu, dấu ấn Phật giáo rõ nét hơn cả. Trên Phụ nữ tân văn (Năm thứ tư, số 162 ra ngày 4/8/1932), Bích Khê có bài thơ Chơi núi Thiên Ấn cho thấy nhãn quan Phật giáo:
“Tiếng mõ khua tan hồn thế tục
Câu kinh tĩnh hết kiếp trần ai
Xa xa ruộng bể mênh mông cả
Như khóc như cười cuộc vãng lai”
(PNTV, 162, tr.22).
Mười sáu tuổi, chàng thiếu niên ấy đã có những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc hý trường dâu bể. Đến năm hai mươi tuổi, trên Duy Tâm Phật Học (Năm thứ hai, số 8, ra ngày 1er Mai 1936, tr.487) của Lưỡng Xuyên Phật học hội ở Trà Vinh, Bích Khê có bài thơ Vô đề (Nhắn ai kẻ tục người tiên). Bài thơ đơn sơ viết theo lối luật thi làm rõ thêm nhân sinh quan nhuốm màu Phật môn của thi sĩ làng Thu Xà.
“Gầm kiếp phù sanh luống hắt hiu
Màu Thiền tỏ rạng cảnh đìu hiu
Khí linh đem bủa đời mê muội
Đường đạo thêm nhuần bước quạnh hiu
“Khe Bích” êm êm thuyền nhẹ nhẹ
Hương vàng phất phất gió hiu hiu
Muôn nghìn khôn đổi gương thanh bạch
Ai bảo rằng ai phận hẩm hiu”.
Bên cạnh ảnh hưởng từ Phật giáo, sách vở văn chương cũng góp phần khơi gợi trong tâm hồn thiếu niên Bích Khê nhiều nghĩ tưởng. Đọc sách Vô gia đình, Bích Khê thấy truyện có nhiều giá trị giáo dục cho nam nữ thanh niên, nên chàng thiếu niên mười bảy tuổi Bích Khê đã làm thơ Đề sách “Vô gia đình” (đăng trên Phụ nữ tân văn, năm thứ tư, số 178, ra ngày 24/11/1932, tr.21). Liên hoàn sáu bài thơ này có nhiều câu thể hiện được chiêm nghiệm của Bích Khê về lẽ đời và tình đời. Như:
“Đố ai thấu được lòng con tạo
Khéo trớ trêu người mãi thế sao?” (bài I);
“Đường thế chông gai thân bảy thước
Biển cồn sóng gió trận ba đào” (bài II);
“Ruộng dâu biến đổi, người chia rẽ
Góc biển chưn trời dễ ước ao…” (bài III);
“Sống là tranh đấu trên trần thế
Giáo dục kìa ai khách thế gian” (bài VI).
Cho thấy, hồn thơ Bích Khê từ thuở thiếu niên đã có những ưu tư sâu sắc về cuộc hiện hữu. Chính điều này làm điểm tựa cho hành trình thi ca của chàng về sau. Từ những chiêm nghiệm đó, chàng thi sĩ làng Thu Xà đã đi và đi xa vào cõi thơ mênh mông bát ngát mười phương.
Trong mái gia đình, có lẽ thi sĩ Bích Khê thân thiết hơn cả là với người chị Lê Thị Ngọc Sương. Vì bà Ngọc Sương vừa là người chị, vừa là người bạn và người tri âm trong những suy tư về đời cũng như về thi ca. Ngay từ thuở thiếu niên, Bích Khê và chị đã cùng làm thơ, cùng có thơ đăng trên Phụ nữ tân văn (số 162, năm 1932). Trên số này, Bích Khê có hai bài: Chơi núi Thiên Ấn, Đưa bạn sơ giao về quê; chị Ngọc Sương có bài Đêm khuya nhớ nhà. Cụ thể, bài thơ như sau:
“Quạnh quẽ đêm khuya cảnh với ta
Ngẩng nhìn cố quận tịt mù xa
Đỉnh đầu núi Ấn cao cao ngất
Mạch nước sông Trà cuộn cuộn ra
Giọng quốc nỉ non trong bóng nguyệt
Tiếng gà xao xác giục canh ba
Cảnh tình như thế ai mà chẳng
Mà chẳng đau lòng lệ ứa sa?”
(Ngọc Sương, Đêm khuya nhớ nhà, PNTV, 162, tr.22).
Rồi, khi vào đời và giao thiệp với bằng hữu, có lẽ nhà thơ chiêm nghiệm được nhiều thói đời thấm thía. Những chiêm nghiệm xuất phát từ thuở mười sáu, mười bảy tuổi đã mang chỉ dấu ươm mầm đậm chất trong từng trang thơ. Đặc biệt, Bích Khê là người coi trọng tình bạn.
“Kẻ trở lui về, kẻ ruổi dong
Cái duyên văn tự cợt anh hùng
Câu thơ Lý Bạch ngâm rồi dứt
Chén rượu Tô công rót lại ngừng
Tình nghĩa keo sơn đưa rước nặng
Nỗi niềm son sắt tạc ghi chung
Quê nhà về đó đôi lời nhắn
Tuy cách ngàn trùng, dạ dễ long”
(Bích Khê, Đưa bạn sơ giao về quê, PNTV, 162, tr.22).
Nhưng, cũng ở tình bằng hữu, Bích Khê nếm trải sự phản bội. Với những khổ lụy trên bước đường đời mang lại, Bích Khê chiêm nghiệm. Những hung hiểm của tình đời tình người khiến chàng thi sĩ bột phát ưu tư. Đó là làn sóng truy vấn hiện hữu để rồi lan tỏa vào thơ. Mười sáu tuổi, Bích Khê có những câu thơ thể như người đã sương gió trải đời.
“Tri kỷ đời nay biết mấy anh?
Cái đồ đoạt lợi lại mua danh
Oai quyền lấn lướt phường phi đạo
Tài sắc đua chen đám dục tình
Giàu ở đầu non thiên hạ trọng
Đói nằm giữa chợ ruột rà khinh
Ới ai đáng mặt người tâm chí
Ráng lấp cho phăng biển bất bình”
(Bích Khê, Tri kỷ đời nay, PNTV, năm thứ 4, số 171 ra ngày 06/10/1932, tr.20).
Biết vậy, nhưng thi sĩ làng Thu Xà cũng không thể ngờ được cuộc trớ trêu bất bình đó xảy ra với mình. Lẽ đó, bài thơ “Tri kỷ đời nay” như tiếng kêu trời trước biển bất bình của thế sự. Bị chính người bạn thân thiết phản bội, đó là đả kích sâu sắc trong nhân sinh quan của chàng thi sĩ. Chuyện Bích Khê lập trường với bạn rồi bị bạn dùng thủ đoạn giành lấy. Bích Khê mở trường lần thứ hai, bạn lại dùng chiêu trò để vu khống trường, đồng thời dùng mồm mép khiến giáo viên ở trường Bích Khê phải lo sợ, từ đó lôi kéo thầy cô trường ấy qua trường mình; người bạn như thế hẳn khiến chàng thi sĩ nhận ra: khi khó khăn mới biết ai là bạn; khi hoạn nạn mới biết bạn là ai.
Vì sao nhân sinh quan của Bích Khê ở tuổi mười sáu, mười bảy (qua nhiều bài thơ đăng trên Phụ nữ tân văn) lại tỏ ra trầm uất trước cuộc biển dâu đầy rẫy bất bình, ngang trái, trớ trêu, ô trược. Cụ thể, trên Phụ nữ tân văn, năm thứ 4, số 172 (ra ngày 13/10/1932), tr.20, chàng có bốn bài thơ họa vận liên hoàn với ưu tư chất chồng.
“Canh trường thao thức nghĩ trò đời
Càng nghĩ càng thêm khóc lẫn cười
Việc nghĩa đều nhơn lơ láo mặt
Đường danh nẻo lợi đón đưa người
Giàu sang, chúng chuộng tiền dư dả
Rách nát, ai giùm phận tả tơi
Chán thấy ngổn ngang tuồng giả dối
Lưỡi kia trau chuốt mặc đưa mời…” (bài I);
*
“Lưỡi kia trau chuốt mặc đưa mời…
Không rứa là không biết ở đời
Mắt thấy bạc vàng đi chẳng dứt
Miệng khoe tài giỏi nói như chơi
Khua môi múa mỏ tuồng trêu thế
Vạch lá tìm sâu oán thấu trời
Trước mặt quan quyền cai khiếp sợ
Nói năng bối rối chẳng nên lời” (bài II);
*
“Nói năng bối rối chẳng nên lời
Khiếp nhược thay cho cái kiếp người
Thầy nọ nương quyền khi cả chúng
Cô kia cậy thế trọng gì ai
Bà con lầm thấy phường ngơ mặt
Làng tĩnh thường nghe chuyện chán tai
Cái não kim tiền ghê gớm nhỉ
Vu người đặt chuyện dệt nên lời” (bài III);
*
“Vu người đặt chuyện dệt nên lời
Ai khóc ai than mặc kệ đời
Mang dày/đay (!) vô lương xoay đủ ngón
Giả màu đạo đức phỉnh từng người
Ong nuôi tay áo ân nên oán
Lòng nhiễm thói tình bạc tợ vôi
Dở dởm trò đời không nói nữa
Biết chăng, chẳng biết hử ông trời” (bài IV).
Nguồn cơn của nhân sinh quan này, có lẽ cần khảo cứu thêm nhưng có thể xác tín rằng ngay từ tuổi mười sáu, chàng trai làng Thu Xà đã bộc lộ nhiều chiêm nghiệm về cuộc tồn sinh. Đối với chàng thi sĩ, nhân sinh như bãi chợ ngổn ngang của đạo đức suy đồi. Phải chăng vì thế, chàng thi sĩ chán ngán, đã tìm đến thi ca. Thi ca như cứu cánh hoặc cũng có thể như cõi riêng mà chàng có thể đi tới những tuyệt đích của hiện hữu, như lòng chàng luôn khao khát.
Từ chiêm nghiệm lẽ đời, chàng thi sĩ họ Lương ắt hẳn gặm nhấm nhiều nỗi u hoài đậm màu ngao ngán và rồi, chàng lặng thầm rời bỏ cõi tục với những ô hợp của lòng người. Chàng đi vào cõi thơ muôn đời để bất tử hóa những điều có nghĩa lý thực sự. Cái đẹp muôn đời vĩnh tuyệt! Sự phi thăng của xác tục: hồn thiêng. Chính ở cõi này chàng thơ xứ Thu Xà tao ngộ với Lý Bạch, với Hồ Xuân Hương..., với muôn đời thi sĩ. Lẽ đó, trong lời bạt tập Tinh huyết, Hoàng Trọng Miên đã nhắc đến Hồ Xuân Hương và Bích Khê cùng chung một cõi. Hoàng Trọng Miên mơ thấy Hồ Xuân Hương để rồi tao ngộ với Bích Khê trong mùa xuân tượng trưng. “Bích Khê phô bày trần truồng những cơn ham mê, khoái lạc bão táp cuồng loạn trong tâm hồn, xác thịt ra trên mặt giấy trắng tinh, nên nhiều vần điệu dính đầy máu tủy”5. Trong cõi đó, nhục phàm hiển linh, đẹp mê mẩn và thiêng hóa thần phách.
“Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
- Đêm nay xuân đã lại
Thuần túy và tượng trưng
Nâng lên núm vú đồi
Sữa trang nhi nhỉ giọt
Bay qua cụm liễu khơi
Những cườm tay điểm hột
Sương phất phơ lau lách
Khẽ uốn mình giai nhân”
(Xuân tượng trưng)
Khí đó, khắp thiên địa trổ hiện vẻ đẹp giai nhân. Cõi trời với cõi trần, cõi thiêng với cõi tục nhập hòa vào cái đẹp duy nhất. Điều đáng nói là Bích Khê dựng nên cõi thiêng trong chính cõi phàm này. Qua thi ca, Bích Khê mở ra cõi thiêng trong chính cõi tục tình ái, khổ đau, phiền lụy và cô quạnh này.
“Tiếng ngọc, màu trăng quấn quít nường
Phút giây người bộ mỏng như sương
- Nường tan ra nhạc? - Tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!”
(Hiện hình)
Điểm nổi bật hơn thế, sự thiêng hóa nhục phàm trong thơ Bích Khê luôn diễn ra trong vũ và nhạc. Nhạc và vũ trong thơ Bích Khê như dung môi và xúc tác để phàm tục phi thiêng tuyệt mỹ. Vũ đó - nghê thường; nhạc đó - tỳ bà. Bằng chất liệu vũ nhạc, chàng họa thêm đường nét, chàng dựng thêm hình khối. Nhờ thế, thơ Bích Khê lóng lánh những không gian lưu ly, không gian xà cừ/san hô, ngọc thạch, trân châu, mã não, hổ phách, sao kim cương, nụ cười hoa lê,… Thi ca là phép thanh tẩy, Bích Khê dùng đến để gột rửa thế sự nhơ nhuốc.
Vẻ tục còn được hóa thiêng bởi đôi mắt - tức ánh nhìn. Chàng thi sĩ thiếu niên có đôi mắt trong tợ ngọc, có khả năng quan sát và phát hiện vẻ đẹp siêu thực của đối tượng. Đôi mắt thi ca của Bích Khê phóng chiếu và khiến cho những ánh sáng thần tình những hương thơm thánh thiện phát tỏa. Như Hàn Mặc Tử nhận xét: “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế, thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu…”6. Qua ánh mắt Bích Khê, chiêm bao đã không còn là chiêm bao. Giấc mơ không phải thủ pháp mà chỉ là chất liệu. Còn thủ pháp của chàng thi sĩ ở đây: thủ pháp thiêng hóa.
“Ồ! Đừng có ngớp! Mời anh hãy bước.
Qua nơi này là cách biệt trần gian
Điềm anh hoa!
Nức nở tiếng tơ vang
Lùa hết trọi vào trong khung cửa ngọc;
- Trời tôi rộng, mịn màng hơn suối tóc,
Ngả ngớn trong hương xạ hiệp hương thần
Anh bước đi là lảo đảo hai chân
Mắt mất mát và miệng nghe ngồn ngọt.
[…]
Trời tôi rộng. Mời anh: bước nữa đi!
Ôi thiên tượng!
Ngai vàng vừa xuất hiện;
Trăng dệt gấm mà sao thêu kim tuyến;
Cả không gian ngời kết ngọc kim cương
Đây thơ lùa báu giữa lòng thương;
Miệng như đàn nói ra thành điệu nhạc
Mắt có phép trào ra hương khoái lạc
Tay hoa tay liền nở chữ phương phi...”
(Một cõi trời)
Sự thiêng hóa cái tục trong thơ Bích Khê đáng gọi là một thủ pháp - Một thủ pháp riêng có của Bích Khê và một thủ pháp của “nghệ thuật siêu thần” (từ dùng của Hàn Mặc Tử).
Khi nói đến cái tục phàm, bạn đọc dễ nghĩ đến tính xác thịt/nhục dục và những lời thơ gợi tả vẻ đẹp hình thể của giai nhân. Thế nhưng, tục phàm trong thơ Bích Khê không phải lối khát dục như vậy, mà đúng hơn đó là một nghi lễ. Và, làm thơ với Bích Khê là thực hành nghi lễ. Đúng hơn: tế lễ. Nhà thơ dùng thi ca để hiến tế thần hồn cốt phách cho thi ca, cho nàng thơ muôn đời. Bấy giờ, thi ca Bích Khê như tế đàn nghệ thuật. Thi nhân đã phủ phục bên nàng thơ muôn đời - nàng thơ bấy giờ hiện ra như ý tượng siêu hình của Tạo Hóa Thần Diệu. Nhục phàm thiêng hóa chính là ở sự phụng hiến như vậy!
“Thơ nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Thơ
Tôi cắn vào trái bổ vỏ xanh mơ
Tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc
Bằng hơi mộng, trong hàm răng, tản mác
Mộng?
Thiên tài?
Trên hỗn độn khỏa thân
Đẹp tỉ mỉ, hỡi rung động truyền thần
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
[…]
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta
Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
Của âm điệu mơ màng run lẩy bẩy
Một hỗn độn đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ - trên viễn cổ Đông phương!
(Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật?)
Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người”.
(Duy tân).
Bên Tạo Hóa Thần Diệu, bên nàng thơ muôn đời, hồn thi sĩ cơ hồ đã thông linh với vũ trụ mênh mông.
Trải nghiệm chủ quan và nội tại, Bích Khê có trực giác mạnh mẽ. Thơ Bích Khê có khả năng trong sự khai mở yếu tính. Khai mở ở đây không phải sự trình bày hay nhận thấy mà sự trực giác. Trực giác này nằm ngoài ngôn ngữ thông thường của “người trần”. Đó là thứ ngôn ngữ tỉnh thức nội tại của “thần linh”. Trực giác của thơ Bích Khê hầu như đã tiếp chạm thần thức. “Nếu chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một nguồn sống phong tình mà thanh khiết cho giai nhân? Để có cái ma lực huyền diệu cám dỗ được ngũ quan của người trần…”7. Quả thực ngôn ngữ thơ của Bích Khê có ma lực “bất khả tri”. Tức là không thể và không nên dùng lý trí để phân tích suy luận; ngôn ngữ thơ Bích Khê mà có lẽ ngôn ngữ thơ nói chung không thể dùng lưỡi dao lý trí mà sử dụng vòng tay ôm ấp trìu mến để cảm thương. Và còn hơn thế, ngôn ngữ thơ thông linh của Bích Khê cần ấp iu trìu mến, cần thương và cần cảm, cần nhập định!
“Ngọc Kiều! Ngọc Kiều! Đến cặp song đôi
Cho tôi đọ vẽ hương trời sắc nước,
Vẽ huyền diệu ứ men say lướt mướt,
Vẽ yêu tinh dồn giận thấu vô gan,
Ta thiếp đi - trong một phút mê loàn
Xuống muôn đợt rồi bay lên tột bực...”
(Tranh lõa thể).
Không chỉ nhờ ngôn ngữ thơ mà thần thức thi nhân thông linh vũ trụ. Đó là quá trình sáng tạo cơ hồ bí nhiệm. Có lẽ ở phương diện này, nhà thơ Thanh Thảo đã phát hiện ra cơ chế sáng tạo của chàng thi sĩ Bích Khê. Sự sáng tạo thể như: khoảnh khắc mà muôn đời. “Thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể chất và tâm linh mình, và không biết cái nào bắt đầu trước: thể xác hay tâm linh? Đó là những bài thơ người ta chỉ phóng ra có một lần, xuất ra có một lần. Phần tích điện, phần thu góp năng lượng là cả một quá trình, nhưng sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Vì thế những bài thơ Bích Khê phải dùng nhạc điệu để đưa dần thơ vào “cõi quên”, “cõi mê”, tức là đưa dần ý thức vào vô thức”8. Nhưng không dừng lại ở vô thức, mà khi sự trực giác của chàng thi sĩ Thu Xà đụng chạm đến bờ cõi chiêm bao thì bờ chiêm bao dạt vào vô thức, đụng chạm đến bờ cõi vô thức thì bờ vô thức liền xô dạt đến trời huyền diệu (như Hàn Mặc Tử đã nhận thấy). Nhưng trời huyền diệu này không được hiểu như là vượt đến mà nên được hiểu như là trở về. Linh hồn trở về với Chân Linh.
“Người ngất ngư - Chết trong muôn thế kỷ!
Chạy điên rồ... đứng sựng giữa xương ma.
Người là ai? Người có phải là ta?”
(Sọ người)
Thần hồn biến hiện ra muôn hình ảnh. Ngàn muôn hình ảnh trong cõi trí, cõi thức, cõi mơ, cõi huyền; tất cả đều chính là hồn phách của chàng. Đó là hành trình chàng đi từ cõi thực đến cõi mơ, từ cõi mơ về cõi vô biên, từ biệt ngã trở về Chân Linh. Quy nguyên trực chỉ!
Qua thi ca, Bích Khê khám phá cõi siêu việt, thông linh vũ trụ. Một cõi trời mà ở đó thi sĩ tao ngộ cùng Lý Bạch, cùng nàng Xuân Hương. Nhưng cõi trời ấy không phải chốn vĩnh lạc an nhiên của chư thiên mà ở đó hồn thi sĩ nhặt từng cánh hoa rụng - cánh hoa đau thương. Chốn đó đau thương đã trở nên vĩnh hằng.
“Muôn dặm sông Ngân, con mộng lớn,
Ô! là đài điện ánh trân châu...
Có người thi sĩ nhặt hoa rụng
Những cánh đau thương sắp mặt lầu!”
(Mộng)
Cùng với thi ca, chàng thi sĩ khai mở những tương phùng màu nhiệm, những giao ngộ phi thường. Từ giao ngộ với giai nhân với thần tượng thẩm mỹ của hồn thơ, chàng thi sĩ đã hiệp thông tâm thức với thần thức. Từ chỗ nhục phàm đến phi thiêng, cơ hồ Bích Khê đã trở về buổi hồng hoang của vũ trụ. “Ôi sắc đẹp, anh hoa hồn vũ trụ/ Phẩm tràng sinh! Tinh chất khí âm dương” (Đồ mi hoa). Một cảm thức siêu hình khôn tả. “Ta những muốn màn đen về cõi mộ/ Cả không gian là bể sáng tràn lan…” (Đồ mi hoa). Từ tế đàn dành cho thần tượng giai nhân, chàng đã phi thăng đến cõi trời, đến thần thức vũ trụ. Với niềm yêu và nguồn tình, sự thăng thiên của chàng thi sĩ Thu Xà hiện ra như thực hành nghi lễ.
“Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc;
Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương;
Là nơi đây đoàn tụ nhạc mười phương
Ứ thành xuân cho niên hoa bất tuyệt,
Cho mở rộng muôn cảm hoài tinh khiết;
Cả thời gian dồn lại ở bàn tay;
Hồn hoa men ôm cả trí đêm nay
Tìm thi vị bay rờn qua ý sắc...
Ai giam lỏng một vì sao giữa mắt
Ánh con ngươi hàm súc biết bao lời?
Lời truyền sóng đánh điện khắp muôn trời
Chữ bí mật chứa ngầm hơi chất nổ...
Nàng bước tới là tim tôi lay đổ!
Đường thăng thiên tình cứ việc bay lên.
Tôi lạy trời! Tôi lạy cả vô biên!
Tình tôi sững vì ăn nhiều ánh sáng,
Nao nao quá, hồng thơm vì ửng rạng,
- Quả nhân duyên mùi mẫn vị phong trần”
(Nàng bước tới).
Sự thông linh này biểu thị khao khát của hồn người trần lụy trong bi ai, muốn thướng vượt đến cõi cao diệu của tâm linh. Cởi bỏ xác tục máu mủ u buồn, bằng ngòi bút thần, thi sĩ tiến nhập bản thể, trở nên vĩnh hằng.
“Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sông lạnh ánh sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi”
(Đề bia trước mộ)
Đêm cuối trước khi mất, Bích Khê ân cần nói với mẹ: “Con còn ở với mẹ nửa đêm nay nữa. Ngày trăm tuổi già của mẹ, con sẽ về rước mẹ đi”. (Theo lời kể Quách Tấn). Đến lúc mất, Khê vẫn còn bình tĩnh, tỉnh táo, trông nhẹ nhàng thanh thản. Cận phút lâm chung, thần trí chàng vẫn tỉnh thức có phải vì những lần tụng kinh Di Đà; hay có phải vì sự thăm viếng của nhà sư mà trước đó Khê đã quen khi nằm viện; hay là vì thơ. Có phải thi ca mở ra cho chàng con đường liên thông đời này với đời đời. “Xác là mộng mà tình là tuyệt đích!” nên thi ca khiến “Cho tình ta xô dồn sung cực điểm/ Và hào quang khiêu vũ với hào quang...” (Nàng bước tới). Chàng thi sĩ tan ra ánh sáng khiêu vũ trong ánh sáng muôn đời vạn đại.
Nhưng cũng chính với thơ, “Anh hoa phát tiết ra ngoài/ Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” (Truyện Kiều). Thơ giúp linh hồn Bích Khê ký xuất tinh anh, đã là phương tiện cho thần thức còn lưu lại trên đời. Nhưng cũng từ đó mệnh bạc xung khắc tài hoa. Bích Khê ra đi trong đêm rằm tháng chạp năm Ất Dậu, tức ngày 17 tháng 1 năm 1946. Trong đêm đó, người nhà thấy một vầng sáng xanh bay lên trên mái nhà. “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”.
Bỏ lại mệnh số, bỏ lại tài hoa, bỏ lại trần lụy, chàng thi sĩ trở về cõi tình vô biên, cõi trời vô hạn, tiến nhập u huyền.
Cõi huyền trong thơ Bích Khê là bước nhảy vọt về không gian nghệ thuật, tức bước nhảy vọt về tư duy nghệ thuật. Nói chung, đó là bước nhảy vọt về tam quan: thế giới quan, nhân sinh quan, thẩm mỹ quan.
Nếu, bạn từng đọc qua bài thơ Đêm trăng chơi thuyền sông Hương của Bích Khê (Phụ nữ tân văn), sẽ thấy thi sĩ làng Thu Xà đã làm bước nhảy vọt về không gian nghệ thuật.
“Thuyền con lững thững mé sông Hương
Mặt nước da trời, bóng lộn gương
Lóng lánh vầng trăng in đáy nước
Phất phơ chiều gió phẫy bên sườn
Dốc bầu phong nguyệt mình nghiêng ngả
Dở túi kinh luân dạ vấn vương
Văng vẳng bên tai đờn sáo thổi
Biển trầm bao thuở lấp cho bường?”
(Đêm trăng chơi thuyền sông Hương, Phụ nữ tân văn, năm thứ tư, số 163, ra ngày 11/8/1932, tr.21).
Từ ánh trăng in đáy nước sông Hương đến vầng trăng hòa trong tiếng tỳ bà là bước nhảy vọt, thi sĩ đã di chuyển cõi thơ mộng đến cõi u huyền. Và thi sĩ đã tiến nhập bằng ngôn ngữ biểu tượng, ngôn ngữ siêu thực. Trong cõi ấy, hồn người phiếu diệu ra những âm thanh, màu sắc, hương thơm thoát tục. Đó là chốn riêng mà thần hồn của thi nhân còn trú ngự.
“Nàng ơi! Tay đêm đương giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tơ êm
Mây nhung pha mầu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi…
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”
(Tỳ bà)
Phải chăng, vì sự mơ hồ của không gian-thời gian nghệ thuật mà Hàn Mặc Tử gọi cõi thơ Bích Khê là địa hạt huyền diệu. “Ở địa hạt huyền diệu, ta thấy thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc. Trong khi nói đến nhạc, thi nhân nghĩ ngay đến những cung cầm chơi vơi, âm điệu rung động cả không gian. Và bởi mê man với sự “nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương”, thi nhân đã sáng tạo được rất nhiều bản ca thần tình diễm ảo. Và nhạc lúc bấy giờ cũng không còn là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, rung rẩy, hay âm thầm nức nở, lanh lảnh như giọng cười, mơn man như ân tình đòi hỏi…”9. Nhưng sự mơ hồ ấy, huyền diệu ấy mới là cõi thực. Cái thực đằng sau cái hiện thực vật lý cảm quan. Cõi siêu thực hay cái hiện thực căn cơ đằng sau hiện thực trải nghiệm lý trí. Thi sĩ Bích Khê đã xuất thần tiến nhập cõi ấy trước tiên bằng trực giác - bằng tỉnh thức cơ hồ gần như đốn ngộ - để rồi sau đó hồn thi sĩ tắm mình trong ánh sáng tiên tri nức nở dao động sóng anh linh. Trong đôi tròng mắt u linh, đôi giếng loạn của hồn thi sĩ, chốn đó người không còn nhận ra chốn ấy là thiên đường hay địa ngục - chỉ chắc rằng đó là cõi uyên nguyên huyền áo.
“Tôi dường nghe trong một phút mê man
Hồn thanh thiên cho đến phách dương gian
Đều vỡ lở cho rung rinh thần thức
- Một thế giới mờ đi trong sáng đục
Và im hơi cho xuất khí âm hư…
Sao? Màu vàng vấn vít lấy màu thơ
Với tình tiết và tên hoa vô thượng
Với đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng
Biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đàng
Nên thiên tài đang tắm ở suối vàng
Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ
Cho đã khát trong đê mê huyền bí
Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh
Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình
Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn”
(Với cả tình hấp dẫn bị băng trinh)
Bích Khê tiến nhập cõi u huyền để từ đó tiêu dao. Thơ là cầu nối là phương tiện và cách thức để nhà thơ tiến nhập cõi huyền, trở về thượng phương bát ngát.
“Mây, tuyết, thời gian bay tợ nhạc
Hồn tôi đã thoát để tiêu dao
Những tờ thơ nát đầy hơi hám
Tay khách đa tình sẽ chuyển trao”
(Nấm mồ)
Chỉ còn những vô hạn mến thương đi về dưới bóng nguyệt mờ. Minh chứng cho hồn thi sĩ đến cùng có lẽ chỉ còn bóng quạ im hơi trên mộ phần.
Ngay từ tuổi thiếu niên, chàng thi sĩ Bích Khê đã bộc lộ nhiều chiêm nghiệm về lẽ đời và tình đời. Chàng nhận thấy chỗ hoang phế của luân lý suy đồi nên khao khát nơi chốn thanh khiết cho tâm hồn. Khuynh hướng tâm linh trong thi ca Bích Khê chính là biểu hiện cho khao khát như vậy.
Thông qua trang thơ, thi sĩ Bích Khê - người con hoàn toàn thuộc về núi Ấn sông Trà - đã thanh lọc tâm hồn và đưa hồn riêng có ấy đến chỗ cao diệu của sự tồn tại cùng thời gian; đồng thời gợi mở và làm thanh mát tâm hồn người đọc. Tâm hồn Bích Khê Lê Quang Lương, thi ca còn hiện ra như tế đàn nghệ thuật, như tế lễ dành cho nàng thơ muôn đời; là phụng hiến cho Tạo Hóa Huyền Diệu. Cõi thơ của chàng đích thực là khả thể thông linh vũ trụ, tiến nhập U Huyền. Đó là, hành trình mà hồn phách chàng trở về với Chân Linh Vĩnh Hằng. Nếu, Hàn Mặc Tử là phượng hoàng đẫm máu thì Bích Khê là khổng tước ngũ sắc trên cung trời Đao Lợi.
Từ khuynh hướng tâm linh, bạn đọc có thể cảm nhận thơ ca Bích Khê tiêu biểu cho cuộc tương phùng Đông - Tây. Hồn thơ Bích Khê đậm đà tinh hoa tư tưởng phương Đông hài hòa trong thi pháp phương Tây, tạo nên phong cách thơ độc đáo. Thơ Bích Khê vừa chan hòa tình tự dân tộc, vừa uyên áo phong khí Á Đông, vừa tân thời và táo bạo theo lối phương Tây. Cuộc tương phùng Đông - Tây trong thơ Bích Khê, là đóng góp đáng kể cho thơ ca hiện đại Việt Nam cũng như sự phát triển của thơ Việt ở những giai đoạn về sau.
T.B.Đ
(TCSH437/07-2025)
----------------------
1 Ngọc Sương (1964/2003). Người em: Bích Khê. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.10.
2 Ngọc Sương (1964/2003). Sđd, tr.8.
3 Ngọc Sương (1964/2003). Sđd, tr.24.
4 Thanh Thảo (2003). Gia đình nhà thơ Bích Khê - Một gia đình cách mạng. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.193-194.
5 Hoàng Trọng Miên (1966). Đề bạt “Tinh Huyết”. Tạp chí Văn - Năm thứ ba, số 64 (ra ngày 15 tháng 8 năm 1966), tr.64.
6 Hàn Mặc Tử (2003). Bích Khê - thi sĩ thần linh. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.101.
7 Hàn Mặc Tử (2003). Sđd, tr.103.
8 Thanh Thảo (2003). Nàng bước tới. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.144-145.
9 Hàn Mặc Tử (2003). Sđd, tr.104.
___________________
Tài liệu tham khảo:
1. Bích Khê (1932). Chơi núi Thiên Ấn; và Đưa bạn sơ giao về quê. Phụ nữ tân văn - Năm thứ tư, số 162 (ra ngày 4/8/1932), tr.22.
2. Bích Khê (1932). Đêm trăng chơi thuyền sông Hương. Phụ nữ tân văn - Năm thứ tư, số 163 (ra ngày 11/8/1932), tr.21.
3. Bích Khê (1932). Tri kỷ đời nay. Phụ nữ tân văn - Năm thứ 4, số 171 (ra ngày 06/10/1932), tr.20.
4. Bích Khê (1932). Nhơn tình. Phụ nữ tân văn - Năm thứ 4, số 172 (ra ngày 13/10/1932), tr.20.
5. Bích Khê (1932). Đề sách “Vô gia đình”. Phụ nữ tân văn - Năm thứ tư, số 178 (ra ngày 24/11/1932), tr. 1.
6. Bích Khê (1936). Vô đề (Nhắn ai kẻ tục người tiên). Duy Tâm Phật Học - Năm thứ hai, số 8 (ra ngày 1er Mai 1936), tr.487.
7. Bích Khê (2003). Thơ Bích Khê. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên.
8. Hoàng Trọng Miên (1966). Đề bạt “Tinh Huyết”. Tạp chí Văn - Năm thứ ba, số 64 (ra ngày 15 tháng 8 năm 1966), tr.64-65.
9. Ngọc Sương (1932). Đêm khuya nhớ nhà. Phụ nữ tân văn - Năm thứ tư, số 162 (ra ngày 4/8/1932), tr.22.
10. Ngọc Sương (1964/2003). Người em: Bích Khê. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.7-28.
11. Thanh Thảo (2003). Nàng bước tới. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.142-145.
12. Thanh Thảo (2003). Gia đình nhà thơ Bích Khê - Một gia đình cách mạng. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.192-195.
13. Hàn Mặc Tử (2003). Bích Khê - thi sĩ thần linh. Trong sách 70 năm đọc thơ Bích Khê. Hà Nội: Nxb. Thanh Niên, tr.98-109.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.