Kẻ dối trá

08:42 14/05/2018

ALEKSANDAR HEMON

Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy. 

Minh họa: Nhím

Trống bụng tròn ấn tượng của ông lộ ra dưới vạt áo toga ướt đẫm mồ hôi, bóng rốn nổi lên chính giữa. Ông lướt qua đám đông với vẻ khinh miệt, lỗ rốn xoay theo ánh mắt ông khi ông xoay người một chút về bên trái, một chút về bên phải. Tiếng ồn lắng xuống. Đám lính lấy kiếm đẩy lên hai người đàn ông rách rưới - dây xích xủng xoẻng trong khi họ lảo đảo bước - và dẫn họ đến hai bên Quan tổng trấn, người thậm chí không thèm liếc mắt nhìn họ. Tất cả trông như một màn trình diễn được tập dượt kỹ càng.

“Tất cả!” Quan tổng trấn quát. “Tất cả! Nhìn ta đây!”

Đám đông đã nhìn theo ông từ đầu, nhưng giờ nó siết chặt lại, như thể mỗi người là một mạch máu và bầu không khí vừa trở nên lạnh hơn. Đám bụi đang dần lắng xuống, phủ lên cơ thể họ, làm cay đôi mắt họ.

“Hai kẻ đáng khinh đây đã phạm luật của Đế chế,” Quan tổng trấn nạt nộ. “Chúng đáng bị trừng trị bằng mức án nặng nề nhất. Nhưng chúng chỉ là dân đen và với lòng khoan dung của Đế chế - một trong hai sẽ sống.”

Đám đông òa lên phấn khích. Quan tổng trấn chỉ vào người bên phải: hắn gầy, cánh tay dài, khẳng khiu và hàm răng mẻ, mắt trái tụ đầy máu và mủ. “Hắn là kẻ trộm,” Quan tổng trấn nói. “Hắn đã cướp miếng ăn của những người khác. Hắn len lén theo họ mỗi đêm. Hắn đánh cắp chút tài sản ít ỏi của họ. Những người cha trở nên túng thiếu, những người mẹ đã khóc, chính là bởi tên vô lại này.”

Tên trộm nhìn về phía đám đông bằng con mắt phải với tất cả vẻ ngây thơ hắn gom góp được. Đám đông biết hạng người như hắn, họ nhận ra lòng tham lam vô đáy của hắn, nhưng họ cũng có thể thấy những vết bầm trên cánh tay hắn; họ có thể thấy những vệt máu khô két từ lỗ mũi dọc theo hàng ria và biến mất vào trong bộ râu.

“Mọi người,” tên trộm gào, giọng rít lên vỡ vụn. “Tôi đói. Các con tôi đói. Tôi đói!”

Một tên lính lấy mu bàn tay vả vào mặt tên trộm khiến một dòng máu tươi nhễu lên bộ râu của hắn. Đám đông xì xào, phấn khích bởi máu hứa hẹn nhiều thêm máu.

“Còn tên này,” - Quan tổng trấn chỉ vào người đàn ông bên trái - “tên này là tên lang băm, là kẻ dối trá. Hắn thốt ra nhiều trò bịp bợm. Hắn truyền đi những lời vu khống, dối trá, những chuyện hoang đường, bôi nhọ những người trung thực và Đế chế này. Đối với hắn, không có gì là thiêng liêng. Hắn phạm tội chống lại sự thật, bạn bè ta, không chỉ Đế chế này - sự thật. Sự thật là mẹ của luật pháp và trật tự.”

Đám đông quay sang chú ý tới người bên trái: tay hắn bị trói sau lưng; bả vai hắn trồi lên như vây cá; đầu gối hắn trụi như sọ trẻ con; bộ râu hắn bết chùng xuống đẫm mồ hôi, như thể hắn đang quắt lại - nhưng người hắn không có vết bầm nào, ngoại trừ nơi chiếc cùm làm rộp cặp mắt cá chân. Hắn thú nhận với lính canh mọi điều họ muốn nghe, và nói cho họ những điều họ không hỏi, tự do thêu dệt miễn sao họ hài lòng - họ chỉ lắng nghe, lắc đầu trong sự hoài nghi, nhưng không thể dừng lại hay đánh đập hắn. Kẻ dối trá nhìn lại đám đông một cách vô hại: có những kẻ cục súc khát máu, chuộng luật, luôn lê mông ngồi trước hàng đầu; và có những kẻ móc túi quẩn quanh đang móc túi chúng; và đằng kia, an toàn hai bên mạn sườn, những công dân có uy tín, ghê tởm và sợ hãi trước cảnh tượng này, đang át tiếng một gã say xỉn đang rên rỉ về những người vợ không chung thủy của mình. Hắn nhận ra những đứa trẻ có gương mặt rỗ và hàm răng vàng ố, những đứa líu ríu theo chân và kéo chiếc đuôi lừa của hắn cách đó không lâu; và còn một cô kỹ nữ say xỉn với đôi mắt xanh rưng đầy nước mắt, như thể hắn là chồng cô. Hắn nhận ra những tên gián điệp đang quan sát đám đông từ chính đám đông, vểnh tai ngóng lời bất chính về Quan tổng trấn hay Đế chế này.

Hắn biết hắn nên bình tĩnh, đường hoàng và bình thản. Hắn biết hắn có thể xoay chuyển đám đông và khiến họ yêu hắn - hắn từng làm vậy trước đây. Hắn có thể chỉ cần nhìn thẳng vào mắt họ, khóa cái nhìn chằm chằm của cô kỹ nữ, hay chạm vào những tên cục súc lông lá, và kể họ nghe một trong những câu chuyện hắn vớ được khi lang thang trên vùng đất này, hoặc truyện ngụ ngôn Joseph kể cho hắn, hoặc chuyện hắn mơ đêm qua. Nhưng Quan tổng trấn sẽ không bao giờ để cho hắn nói; và, ngay cả khi ông ta làm thế, đám đông cũng sẽ khát máu mà không khát lời. Một cơn hoảng loạn kỳ lạ xâm chiếm hắn, như thể toàn thân hắn đang run bắn - một ham muốn đau đớn, choáng váng, nhục nhã là được sống và hít thở trong cơ thể này, bây giờ và mãi mãi. Vậy nên hắn bắt đầu giật đầu về phía bên phải, quăng cái nhìn của hắn vào tên trộm như một sợi dây, nói bằng cơ thể hắn, bởi giọng nói mắc nghẹn của hắn sẽ không thể làm vậy, nói: “Chọn hắn! Chọn hắn!”

Đám đông trở nên khó chịu trước sự thay đổi đột ngột trong thái độ của kẻ dối trá. Gương mặt hắn căng cứng một cách điên dại; cổ hắn liên tục co thắt; đôi mắt hắn lồi sang một bên, như thể đang cố lộn ra khỏi tròng. Giờ đây họ nhận ra kẻ dối trá không chỉ là kẻ dối trá, mà hắn còn bị linh hồn quỷ dữ chiếm đoạt; họ có thể nhận ra hắn là một hạt giống bất hảo. Tên trộm ngồi yên, ý thức được một điều tốt đẹp cho hắn đang bắt đầu diễn ra.

“Thả tên trộm đi,” họ hét. “Thả hắn đi.”

“Thả hắn đi,” Quan tổng trấn ra lệnh cho đám lính.

Kẻ dối trá gục đầu xuống ngực, như thể mọi dây chằng cổ bỗng dưng đứt rời, và nhắm mắt lại. Đám đông đứng trong yên lặng một lúc, thưởng thức khoảnh khắc hắn chấp nhận sự thật, nhưng rồi họ bắt đầu sốt ruột và lê chân, khiến đám bụi bùng lên lần nữa, lần này dày hơn, trong khi mặt trời đã bắt đầu lặn.

*

Đám lính đặt một cây thập giá gỗ khổng lồ trên lưng kẻ dối trá - nhiều chiếc dằm lập tức xuyên qua da trên vai phải của hắn, túa ra những dòng máu tươi. Hắn kéo cây thập giá qua các con phố hẹp chật kín người, những người đang lau mồ hôi trên mặt, chờ cho hắn ngã gục và chết. Nhưng hắn vẫn tiếp tục đi, và trong một khoảnh khắc ảo giác hắn thấy gương mặt bình thản của tên trộm trong đám đông, như thể điều vừa xảy ra chưa bao giờ xảy ra.

Cây thập giá trượt khỏi vai hắn, làm toạc ra một mảnh da lớn. Viên lính đi cạnh hắn nhấc cây thập giá lên và đặt trở lại, nhưng đặt lên trên vai trái, một cách chậm rãi. “Rồi đấy,” viên lính nói. Kẻ dối trá đang thở hổn hển, gần như quên mất cơn đau, nhưng vẫn gắng thốt ra được một lời cảm ơn dành cho viên lính. Đám đông dồn lại xung quanh hai người, nên lính gác phải giải tán họ, đẩy lùi họ lại bằng giáo mác và mặt lưỡi gươm.

“Chuyện này không phải là điềm lành,” kẻ dối trá nói với viên lính.

Viên lính không nói gì.

“Ngươi biết không,” kẻ dối trá nói và ho lấm tấm máu, “ta là con của Chúa.”

Viên lính không nói gì.

“Ta là con của Chúa,” kẻ dối trá nói. “Ta đã được tiết lộ.”

“Quả đúng là vậy,” viên lính nói. “Còn tôi là Virgil.”

Và đám rước tiếp tục, lên đỉnh đồi, nơi phần lớn đám đông đang chờ. Kẻ dối trá ngước lên về phía ấy, hy vọng trong tuyệt vọng rằng những giọng nói trong đầu hắn đã nói cho hắn sự thật.  

---------------------
Aleksandar Hemon, “The Liar,” trong Zadie Smith, The Book of Other People (Penguin, 2008).


Nguyễn Huy Hoàng dịch  
(SHSDB28/03-2018)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp. 

  • AMBROSE BIERCE   

    Năm 1861, chàng trai Barr Lassiter sống cùng cha mẹ và người chị ở gần Carthage, Tennesse.

  • Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.

  • THOMAS VINT

    L.T.S: Thomas Vint người Estonia, năm nay 49 tuổi. Hiện ông viết văn và sống ở Estonia (Liên Xô). Ngoài khả năng viết văn xuôi, ông còn thích vẽ. Ông đã từng triển lãm tranh ở Pháp vào năm 1988. Ông cũng đã tự minh họa cho tập truyện ngắn đầu tiên của mình.

  • JOSHUA BROWN (Mỹ)  

    “Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
    Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

  • RAY BRADBURY

    Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

  • Thomas Burke (1886 - 1945) sinh tại Clapham, ngoại ô thành phố Luân Đôn, nước Anh. Cha chết khi còn rất nhỏ, ông sống với người chú, sau được gởi vào một cô nhi viện.

  • JORGE LUIS BORGES

    Jorge Luis Borges (tên đầy đủ là Jorge Francisco Isidoro Luis Borges Acevedo) sinh ngày 24 tháng 8 năm 1899 tại Buenos Aires, Argentina.

  • CLAUDE FARRÈRE

    Những kẻ văn minh là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Claude Farrère (1876 - 1957) đã nhiều năm sang Việt Nam mô tả vạch trần và lên án sâu sắc chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương trong hơn 80 năm đô hộ.

  • HERMANN HESSE
    (Nhà văn Đức, Nobel văn học năm 1946)    

    Trước đây, một chàng trai trẻ có tên là Ziegler đã sống ở ngõ Brauer. Anh là một trong những người thường xuyên ngày nào cũng gặp chúng tôi ở trên đường phố và chưa bao giờ chúng tôi có thể ghi nhớ chính xác khuôn mặt của những người ấy, vì tất cả bọn họ cùng có khuôn mặt giống nhau: một khuôn mặt bình thường ở giữa đám đông.

  • Nhà văn Nenden Lilis A. sinh tại Malangbong-Garut (Tây Java) năm 1971, là giảng viên khoa Giáo dục và Văn chương tại Indonesian Education University ở Bandung.
    Truyện ngắn và thơ của bà đã in trên nhiều ấn phẩm trong nước. Bà cũng thường được mời nói chuyện tại các hội nghị văn học cả ở trong nước và nước ngoài (như Malaysia, Hà Lan và Pháp). Thơ của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Hà Lan và Đức.
    Truyện ngắn dưới đây được John H. McGlynn dịch từ tiếng Indonesia sang tiếng Anh.

  • Lời dẫn: Cách đây 475 năm, vào ngày 22 tháng 2, tại thành phố Xenvia đã qua đời một người Italia tên Amêrigô, một người đã từng giong buồm liền 7 năm trời trên những vịnh ở phía Bắc và Tây châu Nam Mỹ.

  • LTS: Issac Bashevis Singer sinh tại Ba Lan. Ông là một nhà văn lớn của Do Thái. Hầu hết truyện của ông đều viết bằng tiếng Hébreu và Yiddish, tức tiếng Do Thái cổ. Với lối văn trong sáng, giản dị, có tính cách tự sự, ông thường viết về cuộc sống của những người dân Do Thái cùng khổ. Ông được tặng giải Nobel văn chương năm 1978.

  • LTS: Giải thưởng danh giá Goncourt của văn chương Pháp năm 2015 với tác giả là nhà văn Mathias Enard do Nxb. Actes Sud (Pháp) xuất bản.

  • Sinh ở Manzanillo năm 1907, Loló de la Torriente sống ở Havana từ thuở nhỏ. Bà đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại Machado và các chế độ ủng hộ đế quốc sau đó. Bà trở thành giáo viên và là một đảng viên của Đảng Cộng sản Cuba.

  • Michel Déon sinh năm 1919 tại Paris. Sau khi tốt nghiệp ngành Luật, ông tòng quân cho đến tháng 11 năm 1942. Ở lại vùng phía nam nước Pháp bị tạm chiếm, ông cộng tác với nhiều báo và tạp chí khác nhau.

  • LGT: Alissa York sinh tại Australia và lớn lên tại tỉnh bang Edmonton, Canada, và là tác giả của năm tác phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm bán chạy: The Naturalist, Fauna, Effigy, Mercy, Any Given Power. Cô nhận giải Bronwen Wallace Memorial Award vào năm 1999, và đã từng được đề cử giải văn chương danh giá Scotiabank Giller Prize.

  • LGT: “Cơn Giông” là một trong các tác phẩm Nabokov, văn hào Mỹ gốc Nga, viết trong thời kỳ ông còn sáng tác bằng tiếng Nga, và được đăng lần đầu trên báo Đỵíÿ (Hôm Nay) vào ngày 28 tháng 9 năm 1924. Sau này, nó được Dmitri Nabokov, con trai tác giả, dịch lại qua tiếng Anh và đăng trong một số tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của Nabokov. Bản dịch dưới đây được dịch giả Thiên Lương, người từng dịch Lolita, thực hiện từ bản gốc tiếng Nga.