ALEKSANDAR HEMON
Đám đông xôn xao trong bầu bụi chiều nâu xỉn; họ đợi đã quá lâu rồi. Cuối cùng, Quan tổng trấn bước xuống bậc thang áp chót, dạng chân và chống nạnh ra vẻ quyền chức thường thấy.
Minh họa: Nhím
Trống bụng tròn ấn tượng của ông lộ ra dưới vạt áo toga ướt đẫm mồ hôi, bóng rốn nổi lên chính giữa. Ông lướt qua đám đông với vẻ khinh miệt, lỗ rốn xoay theo ánh mắt ông khi ông xoay người một chút về bên trái, một chút về bên phải. Tiếng ồn lắng xuống. Đám lính lấy kiếm đẩy lên hai người đàn ông rách rưới - dây xích xủng xoẻng trong khi họ lảo đảo bước - và dẫn họ đến hai bên Quan tổng trấn, người thậm chí không thèm liếc mắt nhìn họ. Tất cả trông như một màn trình diễn được tập dượt kỹ càng.
“Tất cả!” Quan tổng trấn quát. “Tất cả! Nhìn ta đây!”
Đám đông đã nhìn theo ông từ đầu, nhưng giờ nó siết chặt lại, như thể mỗi người là một mạch máu và bầu không khí vừa trở nên lạnh hơn. Đám bụi đang dần lắng xuống, phủ lên cơ thể họ, làm cay đôi mắt họ.
“Hai kẻ đáng khinh đây đã phạm luật của Đế chế,” Quan tổng trấn nạt nộ. “Chúng đáng bị trừng trị bằng mức án nặng nề nhất. Nhưng chúng chỉ là dân đen và với lòng khoan dung của Đế chế - một trong hai sẽ sống.”
Đám đông òa lên phấn khích. Quan tổng trấn chỉ vào người bên phải: hắn gầy, cánh tay dài, khẳng khiu và hàm răng mẻ, mắt trái tụ đầy máu và mủ. “Hắn là kẻ trộm,” Quan tổng trấn nói. “Hắn đã cướp miếng ăn của những người khác. Hắn len lén theo họ mỗi đêm. Hắn đánh cắp chút tài sản ít ỏi của họ. Những người cha trở nên túng thiếu, những người mẹ đã khóc, chính là bởi tên vô lại này.”
Tên trộm nhìn về phía đám đông bằng con mắt phải với tất cả vẻ ngây thơ hắn gom góp được. Đám đông biết hạng người như hắn, họ nhận ra lòng tham lam vô đáy của hắn, nhưng họ cũng có thể thấy những vết bầm trên cánh tay hắn; họ có thể thấy những vệt máu khô két từ lỗ mũi dọc theo hàng ria và biến mất vào trong bộ râu.
“Mọi người,” tên trộm gào, giọng rít lên vỡ vụn. “Tôi đói. Các con tôi đói. Tôi đói!”
Một tên lính lấy mu bàn tay vả vào mặt tên trộm khiến một dòng máu tươi nhễu lên bộ râu của hắn. Đám đông xì xào, phấn khích bởi máu hứa hẹn nhiều thêm máu.
“Còn tên này,” - Quan tổng trấn chỉ vào người đàn ông bên trái - “tên này là tên lang băm, là kẻ dối trá. Hắn thốt ra nhiều trò bịp bợm. Hắn truyền đi những lời vu khống, dối trá, những chuyện hoang đường, bôi nhọ những người trung thực và Đế chế này. Đối với hắn, không có gì là thiêng liêng. Hắn phạm tội chống lại sự thật, bạn bè ta, không chỉ Đế chế này - sự thật. Sự thật là mẹ của luật pháp và trật tự.”
Đám đông quay sang chú ý tới người bên trái: tay hắn bị trói sau lưng; bả vai hắn trồi lên như vây cá; đầu gối hắn trụi như sọ trẻ con; bộ râu hắn bết chùng xuống đẫm mồ hôi, như thể hắn đang quắt lại - nhưng người hắn không có vết bầm nào, ngoại trừ nơi chiếc cùm làm rộp cặp mắt cá chân. Hắn thú nhận với lính canh mọi điều họ muốn nghe, và nói cho họ những điều họ không hỏi, tự do thêu dệt miễn sao họ hài lòng - họ chỉ lắng nghe, lắc đầu trong sự hoài nghi, nhưng không thể dừng lại hay đánh đập hắn. Kẻ dối trá nhìn lại đám đông một cách vô hại: có những kẻ cục súc khát máu, chuộng luật, luôn lê mông ngồi trước hàng đầu; và có những kẻ móc túi quẩn quanh đang móc túi chúng; và đằng kia, an toàn hai bên mạn sườn, những công dân có uy tín, ghê tởm và sợ hãi trước cảnh tượng này, đang át tiếng một gã say xỉn đang rên rỉ về những người vợ không chung thủy của mình. Hắn nhận ra những đứa trẻ có gương mặt rỗ và hàm răng vàng ố, những đứa líu ríu theo chân và kéo chiếc đuôi lừa của hắn cách đó không lâu; và còn một cô kỹ nữ say xỉn với đôi mắt xanh rưng đầy nước mắt, như thể hắn là chồng cô. Hắn nhận ra những tên gián điệp đang quan sát đám đông từ chính đám đông, vểnh tai ngóng lời bất chính về Quan tổng trấn hay Đế chế này.
Hắn biết hắn nên bình tĩnh, đường hoàng và bình thản. Hắn biết hắn có thể xoay chuyển đám đông và khiến họ yêu hắn - hắn từng làm vậy trước đây. Hắn có thể chỉ cần nhìn thẳng vào mắt họ, khóa cái nhìn chằm chằm của cô kỹ nữ, hay chạm vào những tên cục súc lông lá, và kể họ nghe một trong những câu chuyện hắn vớ được khi lang thang trên vùng đất này, hoặc truyện ngụ ngôn Joseph kể cho hắn, hoặc chuyện hắn mơ đêm qua. Nhưng Quan tổng trấn sẽ không bao giờ để cho hắn nói; và, ngay cả khi ông ta làm thế, đám đông cũng sẽ khát máu mà không khát lời. Một cơn hoảng loạn kỳ lạ xâm chiếm hắn, như thể toàn thân hắn đang run bắn - một ham muốn đau đớn, choáng váng, nhục nhã là được sống và hít thở trong cơ thể này, bây giờ và mãi mãi. Vậy nên hắn bắt đầu giật đầu về phía bên phải, quăng cái nhìn của hắn vào tên trộm như một sợi dây, nói bằng cơ thể hắn, bởi giọng nói mắc nghẹn của hắn sẽ không thể làm vậy, nói: “Chọn hắn! Chọn hắn!”
Đám đông trở nên khó chịu trước sự thay đổi đột ngột trong thái độ của kẻ dối trá. Gương mặt hắn căng cứng một cách điên dại; cổ hắn liên tục co thắt; đôi mắt hắn lồi sang một bên, như thể đang cố lộn ra khỏi tròng. Giờ đây họ nhận ra kẻ dối trá không chỉ là kẻ dối trá, mà hắn còn bị linh hồn quỷ dữ chiếm đoạt; họ có thể nhận ra hắn là một hạt giống bất hảo. Tên trộm ngồi yên, ý thức được một điều tốt đẹp cho hắn đang bắt đầu diễn ra.
“Thả tên trộm đi,” họ hét. “Thả hắn đi.”
“Thả hắn đi,” Quan tổng trấn ra lệnh cho đám lính.
Kẻ dối trá gục đầu xuống ngực, như thể mọi dây chằng cổ bỗng dưng đứt rời, và nhắm mắt lại. Đám đông đứng trong yên lặng một lúc, thưởng thức khoảnh khắc hắn chấp nhận sự thật, nhưng rồi họ bắt đầu sốt ruột và lê chân, khiến đám bụi bùng lên lần nữa, lần này dày hơn, trong khi mặt trời đã bắt đầu lặn.
*
Đám lính đặt một cây thập giá gỗ khổng lồ trên lưng kẻ dối trá - nhiều chiếc dằm lập tức xuyên qua da trên vai phải của hắn, túa ra những dòng máu tươi. Hắn kéo cây thập giá qua các con phố hẹp chật kín người, những người đang lau mồ hôi trên mặt, chờ cho hắn ngã gục và chết. Nhưng hắn vẫn tiếp tục đi, và trong một khoảnh khắc ảo giác hắn thấy gương mặt bình thản của tên trộm trong đám đông, như thể điều vừa xảy ra chưa bao giờ xảy ra.
Cây thập giá trượt khỏi vai hắn, làm toạc ra một mảnh da lớn. Viên lính đi cạnh hắn nhấc cây thập giá lên và đặt trở lại, nhưng đặt lên trên vai trái, một cách chậm rãi. “Rồi đấy,” viên lính nói. Kẻ dối trá đang thở hổn hển, gần như quên mất cơn đau, nhưng vẫn gắng thốt ra được một lời cảm ơn dành cho viên lính. Đám đông dồn lại xung quanh hai người, nên lính gác phải giải tán họ, đẩy lùi họ lại bằng giáo mác và mặt lưỡi gươm.
“Chuyện này không phải là điềm lành,” kẻ dối trá nói với viên lính.
Viên lính không nói gì.
“Ngươi biết không,” kẻ dối trá nói và ho lấm tấm máu, “ta là con của Chúa.”
Viên lính không nói gì.
“Ta là con của Chúa,” kẻ dối trá nói. “Ta đã được tiết lộ.”
“Quả đúng là vậy,” viên lính nói. “Còn tôi là Virgil.”
Và đám rước tiếp tục, lên đỉnh đồi, nơi phần lớn đám đông đang chờ. Kẻ dối trá ngước lên về phía ấy, hy vọng trong tuyệt vọng rằng những giọng nói trong đầu hắn đã nói cho hắn sự thật.
---------------------
Aleksandar Hemon, “The Liar,” trong Zadie Smith, The Book of Other People (Penguin, 2008).
Nguyễn Huy Hoàng dịch
(SHSDB28/03-2018)
OTTO STEIGER (THỤY SĨ)Ai cũng biết rằng cái tên Ruđenxơ tượng trưng cho sức mạnh và lòng dũng cảm, vậy mà nhân vật của chúng ta lại là một người nhút nhát. Có thể nói là từ lúc lọt lòng: mặc cho bác sĩ hầm hừ doạ nạt và bà đỡ cố công thúc đẩy, mãi ông chẳng chịu ra cho. Điều này để lại dấu vết trên diện mạo của ông. Khi rốt cuộc ông cũng được sinh ra và nhìn thấy thế gian buồn khổ này, trông ông xấu xí quá lắm, còn cái đầu thì rõ là chiếc bắp cải chứ không ngoa.
SLAWOMIR MROZEKSlawomir Mrozek sinh ngày 26 tháng 6 năm 1930, là nhà văn, kịch tác gia và hoạ sĩ tranh biếm hoạ nổi tiếng của Ba Lan. Năm 1953 tập truyện ngắn đầu tay của ông ra đời và bốn năm sau đó tập truyện Con voi được nhận giải thưởng của Tạp chí văn hoá.
ERNEST HEMINGWAYKhông ai có thể chỉ cho mọi người biết mình là thế nào rõ rệt hơn chính tôi làm việc đó. Không ai có thể giấu mình khỏi anh em đồng loại, bởi vì mỗi hành vi của con người, mỗi hành động của sáng tạo đều nói về tác giả của nó. Tôi kể hết cho mọi người biết mọi điều về tôi trong các cuốn sách của mình.
ANDRA NEYBURGA ()LGT: Nữ nhà văn Andra Neyburga sinh năm 1957. Tốt nghiệp Viện Hàn lâm Nghệ thuật Quốc gia Latvia, là người sáng lập tạp chí tiên phong của giới trẻ Latvia Mạch nguồn, chuyên viên tư vấn của Hội Nhà văn Latvia, phụ trách Hội tác giả trẻ (1987-1989). Tác phẩm của cô đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Châu Âu như Đức, Anh, Pháp, Nga...
ENYO IOGY TESHANSKY ()(Truyện cổ - có thể cho cả người lớn đọc)Mơ thường trái hẳn với thực, chẳng phải vậy sao? Trong mơ những mong ước thiêng liêng nhất của chúng ta đều được thực hiện. Khi ta mơ thấy được vàng ấy là khi trong đời ta không một xu dính túi. Nói gọn lại, tương tự như ví dụ này, bạn có thể dễ dàng hình dung tình hình chính trị và xã hội của Xứ Mơ là thế nào.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)Tôi ngồi trong quán cà phê, cũ, vắng, và đang uống cốc nước chè của mình, bỗng tôi thấy có một vật mà ta có thể gọi là người tí hon đang đi ngang qua mặt bàn.
Mẹ tôi làm nghề phù thủy. Bà có thể chế thứ thuốc nước để làm sáng mắt hay để làm nóng dạ con. Bà biết cách thụt rửa âm đạo để có con trai như ý muốn hay chế một liều thuốc độc để tẩy những đứa trẻ không được mong muốn sinh ra. Ngoại trừ những lúc cấp bách, bà tự hái thuốc và lấy những phần thân thể động vật, tôi không được phép giúp bà.
LGT: Tác giả có cách dẫn dắt truyện bất ngờ, lôi cuốn nhờ chọn lựa một chi tiết vừa là nhan đề hay: “Cánh cửa sổ mở”. Từ đó trộn lẫn thực tại với ảo giác qua lời “bịa như thật” với lôgích tưởng tượng tuyệt vời. Điểm đặc sắc là cách xây dựng cấu trúc nhân vật theo kiểu thôi miên nạn nhân bị suy nhược thần kinh của một cô gái tinh nghịch có trí tưởng tượng bịa chuyện lạ kỳ.Chính việc lựa chọn điểm nhìn trần thật bên trong của nhân vật Framton dọc suốt 2/3 truyện với sự ngây thơ dễ tin của anh tạo nên một kết thúc bất ngờ hài hước. BỬU NAM giới thiệu
(tiếp theo phần 1)
Hanan Al Shaykh sinh ra trong một gia đình theo đạo Hồi ở Libăng. Bà lớn lên ở Beirut và sau đó học tại Cairo; là một phóng viên có tiếng ở Beirut và Cairo . Bà lấy chồng là một kỹ sư người Libăng theo đạo Thiên chúa giáo và có hai con. Từ năm 1982 do nội chiến nên họ chuyển tới sống ở London . Bà đã viết ba tiểu thuyết được hoan nghênh nồng nhiệt, Câu chuyện của Zahra, Những người đàn bà của cát và Myrrh. Truyện Myrrh đã được thời báo Publisher's Weekly chọn là một trong số 50 cuốn sách hay nhất năm 1992, và gần đây nhất bà xuất bản cuốn Những nữ học giả ở Beirut . Bà còn là tác giả của một số tập truyện ngắn.
- Coi nào, tạm biệt Jerry! Chăm sóc tốt bà chủ nhé. Phải vâng lời, đừng sủa bậy, đừng có hơi một tí là cáu nghe chưa. Tao sẽ báo cho mày khi nào tao về và mày phải chịu trách nhiệm cái nhà này khi tao vắng mặt đó.
Maisa thích những cái cây đó dù cô không biết chúng tên gì và cũng không tính xem chúng có bao nhiêu nữa. Các thân cây quyện vào nhau rồi lại tách ra, tán lá xoè xuống trải rộng trên mặt đất, những cái lá hình nón xào xạc trong cơn gió chiều.
LTS: Jhumpa Lahiri, sinh ở London trong một gia đình người Belgali (Ấn Độ), lớn lên ở đảo Rhode, hiện sống tại New York . Truyện “Người dịch bệnh” được rút từ tập truyện ngắn Interpreter of Maladies là tác phẩm đầu tay của cô, đã được giải Pulitzer 2000 cho thể loại truyện hư cấu, giải của báo New Yorker cho sách đầu tay hay nhất. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu.
1Anh trở về nhà dọc theo con phố của một thành phố nhỏ ở Czech, nơi anh đã mấy năm sống bình lặng, quen chịu những người hàng xóm hay chuyện và cảnh tục tằn đơn điệu tại công sở - anh bước đi không để ý gì xung quanh (như người ta đi trên con đường đã qua lại trăm lần) và suýt nữa thì ngang qua chị mà không biết.
“Chính anh đã cho em biết tình yêu là gì”. Herman Hesse
Ở miền Nam Thái Bình Dương xa xôi kia có hai hòn đảo nằm cạnh nhau tên là Nurabandi và Kiniwata.
Một truyện ngắn của nhà văn Mỹ, đoạt giải Nobel đầu tiên của nền văn học này vào năm 1930, nhà văn Sinclair Lewis, với truyện “Ông trẻ Axelbrod vào Đại học” do dịch giả và nhà nghiên cứu văn học Phan Quang Định dịch. Các bạn sẽ thưởng thức tài năng viết truyện ngắn của nhà văn này, bên cạnh tài năng viết tiểu thuyết của ông.