Interstellar: Một vũ trụ thực nhất và đẹp nhất

15:49 09/12/2014

Interstellar, bộ phim khoa học giả tưởng vừa ra mắt tháng 11 vừa qua của đạo diễn Christopher Nolan về hành trình tìm kiếm một trái đất khác - một ngôi nhà mới cho loài người, đã khiến khán giả trầm trồ, kinh ngạc và cảm động bởi nhiều yếu tố khác nhau: kỹ xảo điện ảnh đỉnh cao, cốt truyện đầy tính khoa học hấp dẫn, thông điệp đáng suy ngẫm về tình yêu và mối quan hệ của con người với Trái đất. Nhưng có lẽ ấn tượng mê hoặc nhất về bộ phim là hình ảnh hố đen (black-hole) và lỗ sâu (worm-hole) giữa vũ trụ mà đoàn làm phim đã mô phỏng - một kết quả tuyệt vời của sự cộng tác giữa khoa học và nghệ thuật.

Bộ phim là kết quả một năm làm việc của một đội ngũ 30 người và hàng nghìn máy tính.

Interstellar kể câu chuyện về thế giới không tưởng trong tương lai gần, khi Trái đất dần trở thành nơi không thể trú ngụ được nữa: khí hậu khô hạn, bụi mịt mù khắp nơi, thực phẩm khan hiếm vì hầu như không gì có thể sinh sôi trong điều kiện như vậy. Loài người đang bên bờ vực diệt vong, và hi vọng duy nhất là tìm được nơi ở mới, một hành tinh giống Trái đất của chúng ta nhất. Một cựu phi hành gia (do McConaughey thủ vai) được giao nhiệm vụ bay vào vũ trụ để tìm kiếm một hành tinh trong một thiên hà khác, nơi con người có thể bắt đầu lại từ đầu.

Tuy đây không phải là bộ phim đầu tiên đưa khán giả ra ngoài vũ trụ nhưng với Interstellar, lần đầu tiên khán giả được chiêm ngưỡng một mô phỏng hố đen và lỗ sâu huyền bí với tính chính xác chưa từng có. Bữa tiệc cho mắt người xem này là kết quả một năm làm việc của một đội ngũ 30 người và hàng nghìn máy tính. Cùng với một dàn ngôi sao Hollywood- Matthew McConaughey, Anne Hathaway, Jessica Chastain, Bill Irwin- thì mô phỏng hố đen và lỗ sâu cũng đóng một vai trung tâm trong Interstellar.

Đứng đằng sau tính chính xác khoa học của Interstellar chính là nhà vật lý thiên văn nổi tiếng của Viện Công nghệ California (Caltech) - Kip Thorne. Là một chuyên gia về thuyết tương đối và lực hấp dẫn của Einstein, Thorne đã dùng những tính toán, nghiên cứu, cũng như sự say sưa dễ lan truyền của mình để dẫn dắt quá trình tạo nên kỹ xảo điện ảnh hố đen và lỗ sâu kỳ vĩ này.

Thorne không chỉ là một nhà vật lý lý thuyết tên tuổi trong giới của mình, ông còn được biết đến bởi niềm mê say giải thích những ý tưởng phức tạp của thuyết tương đối cho công chúng - những người hoàn toàn “ngoại đạo”. Từ lâu, ông và nhà sản xuất phim Lynda Obst đã có ý tưởng làm một bộ phim xoay quanh sự huyền bí của hố đen và lỗ sâu.

Khoa học giả tưởng luôn muốn tô điểm thêm mọi thứ, như thể vũ trụ tự nhiên của chúng ta không đủ đẹp vậy. Nhưng những gì đội ngũ kỹ xảo thu được từ phần mềm tự tạo của họ thực sự tuyệt đẹp mà hoàn toàn không thêm thắt những yếu tố phi thực tế.

Sau khi Steven Spielberg rút khỏi dự án Interstellar, Christopher Nolan, đạo diễn nổi tiếng với những bộ phim thử thách trí óc người xem như Memento và Inception, đã nhận ngay vai trò đạo diễn cho bộ phim mà em trai mình - Jonathan “Jonah” Nolan viết kịch bản.

Với Kip Thorne là nhà cố vấn khoa học và điều hành sản xuất và Christopher Nolan là đạo diễn, bộ phim có được sự kết hợp hoàn hảo: Thorne đảm bảo tính xác thực, còn Nolan đảm bảo tính nghệ thuật. Vũ trụ hiện ra trong bộ phim như một tác phẩm nghệ thuật của khoa học.

Thorne và anh em nhà Nolan đã cùng nhau đào sâu nghiên cứu những ý tưởng vật lý như không-thời gian bị uốn cong, những hố trong kết cấu của vũ trụ, trọng lực bẻ cong ánh sáng như thế nào v.v. Thorne nói rằng, tuy bộ phim là một câu chuyện của anh em nhà Nolan, nhưng nó cũng là một bộ phim mà nền tảng khoa học được lồng ghép vào kết cấu câu chuyện ngay từ khi mới hình thành, bởi vậy cũng là một công trình khoa học.

Lỗ sâu

Nút thắt của hành trình đi tìm một hành tinh mới cho loài người trong Interstellar nằm ở một thực tế là các thiên hà nằm quá rải rác trong vũ trụ, và các vì sao khác ở quá xa chúng ta. Để đến được ngôi sao gần nhất cũng sẽ mất hàng thập kỷ du hành với tốc độ mà đến bây giờ con người vẫn đạt đến.

Khó khăn này chỉ có thể được giải quyết bởi khái niệm lỗ sâu - khái niệm được giải thích một cách rất dễ hiểu qua một đoạn hội thoại trong phim chỉ với một tờ giấy gập đôi và một chiếc bút chì. Lỗ sâu là lối đi tắt qua một khoảng không gian cong, giống như một con sâu đục lỗ để đi từ đầu này đến đầu kia thay vì phải đi vòng trên bề mặt một quả táo.

Nhưng lỗ sâu kết nối hai điểm rất xa nhau trong vũ trụ thông qua những chiều vượt ngoài bốn chiều của thực tế (không gian ba chiều và thời gian) mà chúng ta có thể nhận thức. Vậy thử thách đặt ra cho các nhà làm phim là làm sao để thể hiện khái niệm này trên màn ảnh.

Để tạo ra được một mô phỏng mang tính thực tế cao cho khái niệm phức tạp này, Nolan đã phải trông cậy vào đội ngũ kỹ xảo của Paul Franklin. Franklin, một nhà kỹ xảo dày dặn kinh nghiệm, hiểu rằng máy tính có thể tạo ra mọi thứ, nhưng đó cũng chính là cái bẫy phá vỡ các qui luật của thực tế mà các nhà làm phim dễ sa phải. Bởi vậy mà ông đã nhờ Thorne tính toán những phương trình để chi phối phần mềm hiệu ứng của họ giống như cách mà các nguyên lý vật lý chi phối thế giới thực.

Thorne gửi cho Franklin những giải thích về lỗ sâu dài hàng trang, chứa đầy các phương trình và trích dẫn nghiên cứu, gần như một bài báo khoa học vậy. Đội ngũ của Franklin từ đó viết một phần mềm dựa vào những phương trình của Thorne, và phần mềm đó đã tạo ra một mô hình lỗ sâu đẹp kinh ngạc. Nó trông như một quả cầu pha lê phản chiếu hình ảnh vũ trụ, một lỗ cầu trong không-thời gian. Franklin nói: “Khoa học giả tưởng luôn muốn tô điểm thêm mọi thứ, như thể vũ trụ tự nhiên của chúng ta không đủ đẹp vậy.” Nhưng những gì đội ngũ kỹ xảo thu được từ phần mềm tự tạo của họ thực sự tuyệt đẹp mà hoàn toàn không thêm thắt những yếu tố phi thực tế.

Hố đen gần với thực tế nhất

Thành công với lỗ sâu đã thôi thúc đội ngũ kỹ xảo thử dùng phương pháp tương tự để tạo ra hố đen.

Không ai biết chính xác một hố đen sẽ trông như thế nào. Đoàn làm phim đã rất quyết tâm thể hiện ý tưởng hố đen có hình cầu, nhưng họ cũng biết rằng nếu sử dụng kỹ xảo thông thường như các nhà làm phim trước đây thì sẽ chỉ cho ra hình ảnh hố đen trông như một cái đĩa. Những gì chúng ta có thể thực sự nhìn thấy ở hố đen là những ánh sáng từ các ngôi sao mà nó hút vào quanh rìa.

Thorne nhận ra rằng, không chỉ khán giả thu được những khái niệm khoa học thực tế và chính xác từ bộ phim, mà ngay bản thân ông cũng thu được những khám phá khoa học từ quá trình làm phim - đây là điều mà Thorne không thể ngờ tới.

Đội ngũ kỹ xảo đã tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm phần mềm được xây dựng từ những tính toán của Thorne và cho ra một kết quả hình ảnh mà ngay chính Thorne cũng không ngờ tới. Một hố đen khổng lồ thăm thẳm quay tròn với tốc độ tương đương 99.8% vận tốc ánh sáng, kéo theo nó những mẩu vũ trụ vào bên trong. Accretion disc - tạm dịch là “đĩa bồi đắp” - của hố đen chứa các loại khí, bụi, và các vật chất bị hố đen kéo theo và có nhiệt độ tương tự bề mặt Mặt trời của chúng ta. Ánh sáng từ đĩa bồi đắp này tạo ra một vầng sáng quay quanh xoáy cầu hố đen trông như uốn quanh trên đầu, dưới đáy và đằng trước cùng một lúc. Đoàn làm phim tin rằng, với xuất phát điểm là những phương trình từ lý thuyết của Einstein, diện mạo hố đen này sẽ là mô phỏng phức tạp và chính xác nhất từ trước đến nay.

Thorne nhận ra rằng, không chỉ khán giả thu được những khái niệm khoa học thực tế và chính xác từ bộ phim, mà ngay bản thân ông cũng thu được những khám phá khoa học từ quá trình làm phim - đây là điều mà Thorne không thể ngờ tới. Ông dự định sẽ công bố ít nhất hai bài báo về những khám phá từ dữ liệu về hiệu ứng hình ảnh của bộ phim.

Như vậy sự cộng tác giữa khoa học và nghệ thuật đã thành công ngoài sức tưởng tượng trong Interstellar: Nolan có được những hình ảnh tuyệt đẹp làm rung động khán giả, còn Thorne không chỉ phổ biến được rộng rãi hơn những kiến thức khoa học phức tạp cho công chúng mà còn khám phá được những hiểu biết mới về vũ trụ.

Nguồn: Khánh Minh - Tia Sáng

--------------------
Nguồn tham khảo:

http://www.wired.com/2014/10/astrophysics-interstellar-black-hole/

http://www.npr.org/blogs/13.7/2014/11/13/363444786/the-science-of-interstellar

http://www.space.com/27692-science-of-interstellar-infographic.html

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Triết học đôi khi được hiểu như là “nghệ thuật sống” và quả thật, điều này đúng. Nhưng cũng có những lý do để tin rằng triết học có thể còn là “nghệ thuật chết”.

  • BORIS CHEKHONIN

    Địa điểm là ở khu Tam giác Vàng, những câu chuyện không phải là nói về CIA, những tên gián điệp, những viên chức chính quyền địa phương thối nát hoặc những nhân vật quen thuộc khác. Thời thế đã thay đổi. Băng-cốc đang phát động cuộc chiến chống lại chất na-cô-tic.

  • L.T.S: Năm 1985 lần đầu tiên ở Pháp độc giả mới biết có một kịch bản văn học của Jean Paul Sartre viết từ 1959 mang tựa đề "Sigmund Freud hay là Bản giao kèo với quỷ sứ". Gần đây báo Văn học Xô viết số 22 tháng 6-1988 đã đăng kịch bản văn học đó kèm với bài viết của giáo sư A.Belkin - tiến sĩ y học, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tâm lý - nội tiết - thuộc Viện tâm thần học MOCKBA. Sau đây Sông Hương xin giới thiệu với độc giả kịch bản J.P.Sartre và bài viết nói trên của giáo sư tiến sĩ A.Belkin.

  • PANKAJ MISHRA - BENJAMIN MOSER

    Ở chuyên mục Bookends hằng tuần, sẽ có hai nhà văn đứng ra giải đáp các vấn đề đặt ra với thế giới sách. Xưa, Ezra Pound từng khích lệ đồng nghiệp: “hãy làm mới”. Tuần này, Pankaj Mishra và Benjamin Moser tranh luận xem ngày nay liệu có bất kỳ sự mới lạ thật sự nào còn lại cho các nhà văn khám phá.

  • Hơn 50 năm vừa viết văn vừa làm báo đã làm cho nhà văn Graham Greene trở thành một người nói tiếng nói của quần chúng trên thế giới.

  • LISANDRO OTERO

    Cách đây mấy tháng ở Thủ đô Buenos Aires (Argentina) một hội nghị các nhà văn quốc tế đã được tổ chức, để thảo luận về đề tài tiểu thuyết sẽ ra sao vào thế kỷ hai mươi mốt sắp sửa đến.

  • Sakharov sống trong một tòa nhà đồ sộ và không mấy vui vẻ ở Matxcơva. Tòa nhà do những tù nhân chiến tranh Đức thiết kế và xây dựng trên những công trường đã bị ném bom suốt thời chiến tranh.

  • PATRICK MODIANO

    (Phát biểu ngày 7/12/2014 tại Hàn lâm viện Thuỵ Điển ở Stockholm của Patrick Modiano, Giải Nobel Văn học 2014)

  • Mọi thông tin liên quan tới người được nhận giải Nobel sẽ chỉ được Viện hàn lâm Thụy Điển tiết lộ sau 50 năm. Giờ đây, sự thật về nhà văn duy nhất từng từ chối giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh đã được công bố.

  • Nhà văn người Mỹ F. Scott Fitzgerald - tác giả của cuốn tiểu thuyết kinh điển “Gatsby vĩ đại” - đã viết thư tay cho con gái trong ngày đầu năm. Lá thư dành cho một cô bé, nhưng khiến người lớn cũng phải suy nghĩ.

  • Trong năm nay, một nhà văn vĩ đại của Mỹ Latinh - Gabriel Garcia Marquez - đã qua đời. Ở đất nước Colombia quê hương ông, người ta đang chuẩn bị cho ra mắt hàng loạt tờ tiền có in hình chân dung nhà văn để mọi thế hệ người Colombia đều sẽ biết và nhớ về ông.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG

    Thời trai trẻ tôi yêu nước Nga qua tác phẩm Chiến tranh và hòa bình của Lev Tolstoi. Lớn lên tôi càng yêu nước Nga hơn bởi lịch sử hào hùng và nền văn hóa phong phú với những con người Nga nhân hậu, dễ thương. Nay về già, tôi quyết tâm đi thăm nước Nga cho bằng được. Tất nhiên Moskva là chọn lựa đầu tiên.

  • TRẦN HUYỀN SÂM

    LGT: Giải Goncourt ở Pháp 5/11 vừa qua, đã vinh danh cho bác sĩ, nữ văn sĩ Lydie Salvayre, với tác phẩm Pas Pleurer/ Đừng khóc.

  • VĨNH THƯ

    Trích ý kiến trao đổi về tình hình đổi mới công tác văn học nghệ thuật giữa đoàn cán bộ lãnh đạo văn hóa văn nghệ Việt Nam nghiên cứu học tập tại AOH (Viện hàn lâm khoa học xã hội trực thuộc TW Đảng cộng sản Liên Xô) với Ban thư ký và một số nhà văn Liên Xô.

  • Khác với mọi lần, năm nay, tin nhà văn Pháp Patrick Modiano được Viện Hàn lâm Thụy Điển chọn trao giải thưởng Nobel Văn học có phần làm cho báo chí, truyền thông ngoài nước Pháp ngỡ ngàng.

  • Tiến sĩ tâm thần học Brian L. Weiss kể về quá trình điều trị cho một bệnh nhân nhớ được tiền kiếp.

  • Sử gia kiêm nhà văn Italy Angelo Paratico vừa công bố một nghiên cứu mới gây sửng sốt, cho rằng mẹ danh họa Phục hưng Lenardo da Vinci (1452-1519) có thể là một nô lệ người Trung Quốc.

  • Theo nghiên cứu mới đây của nhà sử học, tiểu thuyết gia người Italy Angelo Paratico, mẹ của Leonardo da Vinci có thể là một nô lệ người Trung Quốc.

  • Danh họa người Ý Leonardo Da Vinci được nhân loại biết tới như một thiên tài toàn năng. Những hiểu biết và ý tưởng của ông đi trước thời đại mà ông từng sống tới hàng thế kỷ. Mới đây, người ta lại phải ngỡ ngàng trước một phát hiện mới về ông.