Huế: có một dòng sông thơ…

16:39 20/01/2009
VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

Thơ và Thơ Huế là dòng chảy vô tận mà thiên nhiên Huế với cỏ cây, hoa lá, thành quách, chùa chiền, biển trời… chính là một chất xúc tác kỳ diệu, làm cho thơ Huế toát lên vẻ trầm mặc sâu lắng, mang nặng tình đời, tình người và có sức lan tỏa sâu rộng. Nó giống như một sự hòa trộn giữa mơ và thực, giữa thiên nhiên bên ngoài và thế giới nội tâm bên trong của các nhân vật (hay của chính tác giả?). Nó giống như những âm thanh, những tiếng gọi hay những bóng nắng chập chờn ẩn hiện giữa đời, trong những thời khắc lạ lùng của cuộc sống, kêu với và vẫy gọi con người giữa cuộc trần gian này về một vùng, một khoảng thời gian, không gian của một thế giới khác… Vùng đất này đã sản sinh ra thơ và rồi Thơ lại quay về tôn vinh cho những vẻ đẹp của những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của vùng đất ấy.

Có phải vậy không khi Huế có con sông Hương mượt mà đi qua sau cuộc hành trình của ngút ngàn ký ức, từ dãy Trường Sơn ngập tràn bí ẩn, rồi theo mọi ngả nguồn len lỏi như những mạch nguồn, như những cộng hưởng của tâm hồn mãi hoài thai sự biến dị cuộc đời, để nhập lại, làm một dòng sông ngâm mình trong cái thơm ngát hoa Thạch Xương Bồ, và chảy về bên lòng những thành quách cũ như một giấc mơ. Và có thế giới xuất hiện trong những giấc mơ, nhưng, thật ra, nếu được nhìn ngắm kỹ, chính những giấc mơ ấy lại chứa đựng trong nó những dấu chỉ, những yếu tố rất thật của hiện thực con người.

Huế và thơ Huế vẫn thường bắt đầu cho một sự khởi đầu của mình bằng đêm thơ Nguyên tiêu. Thực ra, không phải từ khi người ta lấy Đêm Nguyên tiêu là ngày thơ Việt mà ở Huế mới có những đêm thơ như vậy. Bởi vì, trước đó, nhiều người Huế, nhiều văn nghệ sĩ Huế vẫn thích tụ họp, uống rượu ngâm thơ vào đêm trăng này. Nguyên tiêu tượng trưng cho một cái gì thật sáng, thật trọn vẹn của mùa xuân, mùa của những ước mơ tràn trề, những cảm xúc luôn trào dâng. Và Thơ là những cảm xúc thăng hoa mãnh liệt nhất. Huế cũng hãnh diện vì mình đã trở thành một thành phố Festival của Việt , và trong đó, Huế cũng đã có cho mình một Festival Thơ đầy chất nhân văn. Festival Thơ Huế 2008 có thể xem là một cuộc trình diễn Thơ lớn nhất của Huế, và có thể là của cả nước, kéo dài cả tuần lễ và với rất nhiều chương trình khác nhau.

Đầu tiên phải kể đến là bộ sách 700 năm Thơ Huế đã hoàn thành. Trong tập sách đã có đến gần 500 tác giả với 843 tác phẩm, là một tuyển tập thơ đồ sộ về Huế từ trước đến nay. Tiêu chí để tuyển chọn là những bài thơ hay của các tác giả không chỉ là người Huế mà còn những tác giả từng sống hoặc đến với Huế và viết về Huế. Cũng trong Festival Huế, bộ sách 30 năm Văn học Thừa Thiên Huế cũng được ra mắt. Bộ sách chia làm 3 cuốn, qua đó điểm lại tiến trình và những thành tựu văn học của tỉnh sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. Riêng cuốn Thơ với nhan đề Ngôi nhà có ngọn lửa ấm đã giới thiệu 75 gương mặt nhà thơ xuất hiện tại mảnh đất Cố đô từ năm 1975 và những nhà thơ có tác phẩm được sáng tác nằm trong biên độ từ năm 1975 đến nay. Bên cạnh đó, cuốn sách 1000 nhà thơ Huế tập 2 cũng ra đời và đón nhận được sự hoan nghênh của đông đảo công chúng. Nếu như ở tập sách 30 năm Văn học Thừa Thiên Huế gồm nhiều gương mặt là hội viên Hội Nhà văn tỉnh thì ở tập 1000 nhà thơ Huế tập 2 lại bao gồm nhiều gương mặt rất ít xuất hiện trên văn đàn. Nhà thơ Viêm Tịnh, một trong những người thực hiện cho biết: “Tập sách không giới hạn thành phần, miễn sao đó là những người Huế, yêu Huế và làm thơ về Huế. Bởi Huế là mảnh đất của thơ, của những tâm hồn thơ. Và bởi vì, Thơ không thuộc về riêng một ai cả”.

Festival Thơ Huế cũng đánh dấu một sự chuyển biến của thơ, của những người làm thơ. Không còn dấu mình đâu đó trong trí nhớ, trong ngăn tủ, hay chỉ để đọc cho nhau nghe, mà thơ chính thức được quảng bá, được tôn vinh trong một không gian mở. Bên cạnh một Quảng-trường-thơ duyên dáng nhìn ra dòng sông Hương sâu lắng với những ngôi sao tỏa sáng từ một tác phẩm sắp đặt của họa sĩ Đinh Khắc Thịnh, Thơ và các nhà thơ đã đến gần hơn với công chúng qua những đêm ra mắt các tập sách hay những đêm trình diễn thơ. Các chương trình như: Đêm thơ sinh viên, Đêm thơ của Câu lạc bộ Thơ Sông Bồ, Đêm thơ của các tác giả là hội viên Hội Nhà văn… đều đã lôi cuốn rất đông công chúng đến nghe, và cho thấy sức thu hút của Thơ cũng như cái chất đậm đà trong một nét văn hóa thấm đẫm không gian mang sắc màu của Huế,con người Huế và của sự kết tinh của bề dày lịch sử. Vẻ đẹp của thơ càng trở nên lung linh hơn trong vẻ rộn ràng của không khí lễ hội. Thơ, người làm thơ và công chúng dường như không còn có một khoảng cách nào. Ở đó chỉ có sự say mê. Và từ sự say mê đã hóa thành nhung nhớ.

Không chỉ có các chương trình trình diễn thơ bằng hình thức ngâm hay đọc, mà thơ cũng được thể hiện, được lan tỏa qua các loại hình nghệ thuật khác. Đó là các cuộc triển lãm thư pháp 40 bài thơ Trung đại tiêu biểu về Huế và Thủ bút của các nhà thơ xứ Huế, xuất phát từ ý tưởng của nhà thơ Hải Trung. Ở cuộc triển lãm 40 bài thơ Trung đại tiêu biểu về Huế, mọi người cảm nhận một không gian thơ xưa, một không gian Huế xưa bàng bạc. Xem triển lãm Thủ bút của các nhà thơ xứ Huế, mọi người có một sự hình dung đầy đủ về chân dung các nhà thơ của nhiều thế hệ nhà thơ xứ Huế đang sống ở miền đất này.

Mới đây thôi, vào cuối tháng 11/2008, trong chương trình Tuần văn hóa Huế tại Hà Nội nhân kỷ niệm 15 năm quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là Di sản văn hóa thế giới (1993 - 2008), 5 năm Âm nhạc cung đình Việt Nam - Nhã nhạc triều Nguyễn được ghi vào danh mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại (2003 - 2008), Thơ và Thơ Huế lại một lần nữa được giới thiệu, được tôn vinh. Đó là các cuộc triển lãm Hà Nội - Huế và những bài thơ Hán Nôm gồm những bức thư pháp viết trên vóc sơn mài lớn, 20 bức trên giấy xuyến chỉ, thể hiện các bài thơ bằng chữ Hán, chữ Nôm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lý Thường Kiệt, Bà huyện Thanh Quan, Vua Minh Mạng, Thiệu Trị. Đến với Tuần Văn hóa Huế, ngoài việc được tham quan triển lãm, thưởng thức các loại hình nghệ thuật cung đình Huế, công chúng Thủ đô còn có cơ hội hòa mình tham gia vào các trò tiêu khiển cung đình xưa để hiểu thêm về các thú tiêu khiển của các ông hoàng bà chúa một thuở. Họ có thể hiểu thêm về thú thả thơ trong “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân qua trò chơi Thả thơ. Đặc biệt sẽ có các chương trình trình diễn thơ theo một cách làm mới, tái hiện các “chiếu thơ” qua hai chương trình: 700 năm Thơ Huế 1000 năm Thơ Thăng Long - Hà Nội. Phần diễn ngâm của Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế, phần trình bày thơ còn có sự phối hợp với các nhà thơ Hà Nội. 

Những hoạt động đó nói lên một điều rằng, Huế và Thơ Huế vẫn luôn là một dòng chảy vĩnh cửu của tâm hồn, là sự kết nối cuộc đời qua bản thể của cái đẹp Vĩnh hằng. Đó còn là thứ khói sương óng ánh đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi con người Huế, để từ đó thăng hoa thành chất Huế, thành thành-phố-thi-ca trong mọi tâm hồn.
V.V

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.