Hồng Nhu - ngọn gió chướng miệt đầm

16:35 18/08/2008
VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".

Hình như đấy là một đoạn trích nhỏ của huyền thoại? Hay một câu chuyện cổ tích vừa lạ vừa quen đối với những người dân đầm Mỹ Lợi, Cầu Hai - chốn quê đã sinh ra một Hồng Nhu tài hoa với lối viết văn xuôi chín đầy kinh nghiệm?
Đoạn trích nhỏ trong truyện ngắn "Lễ hội ăn mày”, và tập truyện cùng tên xuất bản năm 2001 của Hồng Nhu như dẫn dắt người đọc miên man trong những mê cung huyền tưởng. Không bất ngờ, ấn tượng bởi kết cấu và thời gian rối theo kiểu "đục lỗ thủng bằng thời điểm để quay nhìn lại" của tác giả tiên phong dòng ý thức M.Proust nhưng người đọc thật sự bất ngờ trước nghệ thuật xây dựng truyện bằng những chi tiết tưởng chừng không bao giờ có thực của nhà văn. Đi sâu vào đoạn khúc trong cuộc đời một người đàn bà, một cô bé ăn mày đến một đời làm vợ trên hoang vu đầm phá, sự mặn mà kinh nghiệm của nhà văn khiến ông mang vào tác phẩm hơi thở của gió lạnh biển khơi và tràn trề những hy vọng ấm áp trong nhiều đoạn cắt, càng tô đậm thêm phong tục, lối sống của con người miệt đầm. Vừa "lạ hóa", vừa huyền tưởng, "Lễ hội ăn mày", là cuốn phim được lắp ghép bằng thủ pháp nghệ thuật điện ảnh hiện đại. Có những ngày rằm tháng 7 không nghi ngút trầm hương lễ cúng cô hồn của người dân xứ Huế mà mang dáng dấp của một lễ hội cổ xưa, khấp khởi yêu thương và buồn vui trầm lắng.
Toàn bộ tập truyện ngắn của Hồng Nhu bao gồm những hình ảnh sông nước, đất trời, tình người và số phận... bằng những khám phá của một linh hồn gió chướng chỉ thích đi vào tâm hồn trong sâu cùng ngõ ngách và bộc lộ thái độ sống của mình. "Những điều tốt đẹp, vẹn toàn không phải tự trên trời rơi xuống mà con người phải tự tìm lấy, tự giành lấy" (Giếng loạn)...
Phải chăng, từ một chuyển kết giản đơn ấy mà người thợ săn đã tìm rừng làm bạn, và biết xót xa trước nụ nhài mong manh không nở nổi giữa mùa đông hay những cánh chim vàng anh cũng manglại vấn vương khi chia lìa đôi lứa. Với "Người trong rừng sớm", người đọc có lúc không khỏi băn khoăn chất na ná "Muối của rừng" của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng không... Những băn khoăn của nhân vật chính khác xa với cái kết huyền thoại của lão Diên thợ rừng lão luyện trước mùa hoa tử huyền. Nhà văn như không nói gì cả. Thế giới lại được đẩy lùi ra xa và cứ thế những ngôn ngữ tự mình gắn kết, tôn tạo những ẩn ngữ giản dị, làm tác phẩm vừa "đời thường" vừa không kém phần tinh tế. Ở nhiều truyện ngắn, sự chậm rãi của con chữ được kéo dài thái quá. Đó không phải là một giãi bày. Đỉnh cao của giản dị như bất chợt hóa thành vô thiếc, và 9 truyện ngắn trong tập truyện là dòng chảy của nước, của sự chìm sâu từ nước đến gió chướng lạnh mù; mang vô thứ hiển bày giữa những cốt truyện thâm trầm, hồn hậu.
Vừa yêu thương, vừa sáng tạo những ước vọng, gian khổ, âu lo của con người, trong nhiều tác phẩm khác của mình, ngọn gió chướng miệt đầm ấy càng trải qua thời gian, càng chín tới, càng kết tinh sự mặn mòi của biển trời vào tâm hồn sông nước. Giữa biển trời mênh mang ấy, "Lễ hội ăn mày" của Hồng Nhu đã vượt qua hành trình của những giới hạn, chậm rãi rong chơi giữa bến không cùng!
Huế, 1.2002
V.T

(nguồn: TCSH số 158 - 04 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.

  • VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

  • NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

  • KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

  • HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.

  • TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

  • VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

  • NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

  • YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)

  • VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

  • TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

  • LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001

  • HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.

  • HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.