Hơn 50 năm bài hát "Lúa vàng" và lớp văn nghệ quân đội liên khu 4

09:40 27/05/2009
MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

Nhạc sĩ Mặc Hy

I. Vài nét về lớp văn nghệ quân đội liên khu 4 và đoàn kịch chiến sĩ ở chiến trường Bình Trị Thiên thời chống Pháp:

Tháng 3-1949, theo lệnh của Thiếu tướng Nguyễn Sơn, một lớp văn nghệ quân đội được triệu tập ở Thanh Hoá gồm trên 70 chiến sĩ làm công tác văn nghệ của ba trung đoàn 77 (Thanh Hoá), 9 (Nghệ An) và 18 (Hà Tĩnh) cùng các thành viên đoàn kịch Giải phóng mới ở Việt Bắc vào... Hiệu trưởng là nhà văn Nguyễn Đình Lạp - tác giả tiểu thuyết "Ngoại ô"; giáo viên kịch có Chu Ngọc, Trọng Miên, Trúc Quỳnh, Hoàng Uẩn; giáo viên nhạc: Lê Yên, Phạm Văn Chừng, Phạm Duy; giáo viên hoạ: Sỹ Ngọc, Phạm Văn Đôn; giáo viên văn: Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Đức Quỳnh...

Tây nhảy dù xuống Bắc Kạn 1948, đoàn kịch Giải phóng và một số văn nghệ sĩ ở Việt Bắc vào Thanh Hoá trong đó có Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương (Hoài Trung, Hoài Bắc), Thái Hằng (sau là vợ Phạm Duy). Thanh Hoá lúc đó gần như là thủ đô văn nghệ của cả nước, tập họp trong Hội Văn hoá kháng chiến do ông Đặng Thai Mai lãnh đạo và Phòng chính trị Liên khu 4 do Thiếu tướng Nguyễn Sơn làm tư lệnh.

Lớp học được quân sự hoá, cùng theo nơi đóng quân của Bộ tư lệnh Liên khu 4, khi thì ở Quần Kênh, Quần Tín, Chợ Đà (huyện Thọ Xuân), khi thì ở vùng núi Nưa, Cổ Định (huyện Nông Cống). Chúng tôi vừa học, vừa dàn dựng những vở kịch biểu diễn phục vụ địa phương. Tôi đã đóng vai Chủ tịch xã cùng vợ (chị Trúc Quỳnh) trong vở "Đứa con hư" của Trần Doãn Tý, đóng vai Anh dân quân cùng Lê Lự trong vở "Ghen hụt" của Đoàn Đức Nhã. Tôi nhớ những buổi luyện nói bên bờ ao, đọc to lên lời thoại: "Bộc ơi! Bộc! đây là đâu, bây giờ là bao giờ? ta là ai?..."

Chúng tôi dựng lại cả cảnh thủ đô Hà Nội những ngày đầu kháng chiến ở gần chợ Đà: có hồ Hoàn Kiếm, phố Hàng Đào v.v... có xe xích lô chở Tây... tối đến có diễn kịch "Những người ở lại" của Nguyễn Huy Tưởng ở Nhà hát lớn. Hơn 70 học viên lớp văn nghệ quân đội năm ấy, sau này chỉ còn chưa đến 10 người theo đuổi nghệ thuật như: Hải Ninh (điện ảnh), Hải Hồ, Hải Bằng, Chung Anh (văn thơ), Đình Quang (kịch), Mặc Hy (nhạc)...

Song song với lớp văn nghệ của chúng tôi, nhà văn Đặng Thai Mai cũng tổ chức mấy lớp văn nghệ kháng chiến đào tạo cán bộ văn nghệ cho liên khu.

Học xong 3 tháng (3 - 6/1949), chúng tôi gồm trên 15 bạn trẻ của đội tuyên truyền trung đoàn 77 và một số đoàn viên ở Phòng chính trị Liên khu 4 như cô Kim Khanh, anh Vĩnh Tôn, Vĩnh Cường... xung phong vào phục vụ chiến trường Bình Trị Thiên. Anh Đình Quang làm đội trưởng, phó là hai anh Bửu Tiến với Phạm Duy, cũng chỉ trên dưới 30 tuổi. Anh Đình Quang 22 tuổi, cùng tuổi với tôi. Ngoài ra còn anh Đình Cao, Lê Lự, Phạm Toan, Duy Châu, Quốc Đống... 2 anh cấp dưỡng là Nguyễn Mậu và Lê Văn Mốc (sau đổi là Nhân).

Xuất phát từ Thanh Hoá, sau gần 1 tháng đi bộ, chúng tôi đã có mặt ở chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị). Trên đường đi, chúng tôi vừa tập các tiết mục văn nghệ, vừa biểu diễn phục vụ ở Đô Lương, Nam Đàn, Đức Thọ... Ở Đức Thọ, chúng tôi gặp 2 họa sĩ Nguyễn Đức Nùng và Văn Giáo ở khu 5 ra, anh Trần Hoàn cùng đi, ở Bình Trị Thiên ra. Lúc ấy, ở Đức Thọ đang mùa ép dầu lạc. Chúng tôi gặp nhau, ngồi bên những cỗ máy ép dầu bằng nêm, mùi dầu lạc thơm lừng.

Qua Linh Cảm, đến ga Đò Vàng, chúng tôi đi xe "goòng tự hành" lên, xuống dốc, phó mặc cho số phận, qua cầu Khe Nét tới đất Quảng Bình. Chúng tôi nghỉ và biểu diễn ở Chợ Gát, ở Minh Cầm, nơi có những hàng cây cao thẳng đứng như hàng sao đen phố Lò Đúc (Hà Nội). Tại đây nghe một anh bạn thổi kèn Ác-mô-ni-ca bài "Chiều Minh Cầm ca" rất hay. 50 năm sau mới biết đó là nhạc sĩ Chiêm Tứ, người Huế vừa là tác giả, vừa là người thổi kèn.

Đoàn chúng tôi là đoàn A, có nhiệm vụ vào thẳng chiến trường, còn đoàn B vào đến Quảng Bình, rồi quay ra. Tôi nhớ đoàn B có họa sĩ Phạm Văn Đôn, nhạc sĩ Phạm Văn Chừng, nhà viết kịch Trần Doãn Tý...

Theo một đơn vị quân đội, chúng tôi trèo đèo U Bò, Ba Rền vào đất lửa miền Nam Quảng Bình. Qua ga Lệ Kỳ, theo đường sắt qua cầu Sa Lung, chúng tôi rẽ hướng Tây qua Gio Linh - Vĩnh Linh (Quảng Trị). Nghỉ ở Gio Linh, nghe lãnh đạo huyện kể chuyện một bà mẹ giữ đầu con mình là du kích bị Pháp giết. Phạm Duy sáng tác ngay bài "Bà mẹ Gio Linh", lời hát có câu:

"... Hai tay nâng nâng, rưng rức nước mắt đầy,
Mẹ nhìn đầu con, tóc trắng phất phơ bay..."

Qua vài đồn địch chưa bị ta tiêu diệt, Phạm Duy viết bài "Bao giờ anh lấy được đồn Tây?". Nét nhạc lấy từ bài "Em ơi! buồn làm chi? còn chờ mong lúa về đồng xanh, một ngày mai ước hẹn về đô thành...", anh viết tặng chị Thái Hằng (1949).

Vào đến Ba Lòng, chúng tôi chia nhau ra ở các lán mái lợp tranh, ngủ trên những sàn ghép bằng cây gội, nằm rất đau lưng. Chiếu là những mảnh đệm dệt bằng cỏ lác. Chăn là những phông màn, cánh gà trang trí. Chúng tôi được lãnh đạo mặt trận: đồng chí Hà Văn Lâu, Trần Quý Hai, các chiến sĩ, cùng đồng bào chiến khu đón tiếp rất ân cần trong đêm biểu diễn đầu tiên ra mắt. Mở đầu bao giờ cũng là màn đồng ca "Văn nghệ sĩ ra tiền tuyến!" bài ca chính thức của Đoàn. Ấn tượng nhất là bài thơ "Đêm liên hoan" của Hoàng Cầm, do Phạm Duy ngâm: "Đêm liên hoàn, đầu nhấp nhô như sóng biển ngang tàng, ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực vì say sưa thân thiết Vệ quốc đoàn..."

Ở lại chiến khu 3 tháng, học chính trị, xây dựng tiết mục, ban ngày, chúng tôi sơ tán vào những cánh rừng bên cạnh sông Thạch Hãn, tối đến mới ra nhà ở, sinh hoạt tổ 3 người dưới ánh đèn dầu hoả làm bằng lọ mực Oa-téc-man. Cũng dưới ngọn đèn này, tôi đã học hoà âm, sáng tác nhạc qua các tác gia Vincent Dinđy, Reber Dubois, Lavignac...

Hàng ngày, chúng tôi cơm ăn hai bữa, mỗi bữa một đĩa nhôm "sắn cõng cơm" cùng một đĩa bí đỏ nấu ruốc (mắm tôm). Từ các anh Lê Tự Đồng, Vũ Lãm, trưởng phó phòng Chính trị phân khu đến các anh Hà Văn Bảng (ban địch vận), anh Độ (ban tuyên huấn), đều xếp hàng, đợi chị Giang cấp dưỡng múc cho mỗi người một muôi cơm và một muôi canh. Sau đó, ngồi bệt trên sàn đất vừa ăn, vừa chuyện trò vui vẻ. Một số hàng binh Pháp ở địch vận cùng ăn, rất ngạc nhiên vì không biết ai là sĩ quan, ai là lính?...

Để đỡ đói, chúng tôi thường hái rau má, rau tàu bay ăn thêm. Ngày nghỉ, ra chơi nhà đồng bào Vân Kiều, Kà Tu được đồng bào luộc sắn cho ăn no kễnh bụng.
Cuộc sống cứ thế đều đặn trôi đi...


II. Về bài hát "Lúa vàng"

Sau mấy tháng ở chiến khu, mở mắt ra, tầm nhìn của chúng tôi đã bị ngọn núi che khuất. Đặc biệt, nhìn về hướng Tây, những ngày nắng, thấy lửa đốt rẫy của đồng bào dân tộc, tàn tro bay về tận chỗ ở. Chúng tôi được lệnh xuống đồng bằng, rồi được bổ sung thêm mấy chiến sĩ thuộc "Ban ca hò" của mặt trận, trong đó tôi nhớ có o Tịnh o Mai... cộng với chị Kim Khanh (em nhạc sĩ Ngọc Bích) chúng tôi có 3 nữ.

Từ chiến khu, chúng tôi hành quân tới Hải Đạo, sát đường quốc lộ, trời vừa tối. Đợi đến tối mịt, chắc chắn không có địch phục kích, các du kích địa phương mới dẫn cả đoàn băng qua đường quốc lộ xuống vùng biển. Không khí tĩnh lặng, mùi xăng của đoàn "Công voa" địch vừa chạy qua lúc chiều còn sặc vào mũi chúng tôi.

Sau mấy giờ ngủ mê mệt, sớm hôm sau thức dậy bước ra sân, nhìn ra bên ngoài là cả một cánh đồng lúa chín vàng rực, chạy dài xa tắp tới tận chân trời. Chúng tôi chia nhau ở nhà đồng bào. Đây là vùng giáp ranh, có hội tề ngụy ban ngày, tối đến theo Việt Minh. Chúng tôi ăn mặc như dân thường, sống trà trộn với đồng bào. Ban ngày giúp dân gặt lúa, phơi lúa. Tối đến, trên các sân nhà, tiếng chày vồ thình thịch nhịp nhàng theo tiếng hò cho đến sáng. Khó nhất đối với chúng tôi, những thanh niên miền Bắc là ngôn ngữ, tập nói tiếng địa phương cho chuẩn. Dù sao thì đồng bào cũng vẫn nhận ra chúng tôi từ Bắc vào nên càng thương yêu nhiều.

Một tứ thơ, một ý nhạc chợt nảy ra trong óc tôi:

"Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Nét nhạc uốn lượn như sóng lúa, nhẹ nhàng, êm ái. Đoạn 2, tiết tấu thay đổi, nhịp nhàng như tiếng chày vồ cùng điệu hò rộn rã.

"Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

Bài hát hoàn thành trong một đêm cuối năm 1949 ở vùng Kế Môn, Đại Lược, huyện Phong Điền, bắc Thừa Thiên, được đoàn dựng, giới thiệu ở Đại hội Văn nghệ Quảng Trị 1950, do hai vợ chồng Nguyễn Hữu Thiết và Ngọc Cẩm trình bày. Ở Đại hội này, bài hát "Công nông liên minh" của tôi được giải thưởng về nhạc. Phòng chính trị Phân khu cho in li-tô lấy tên là "Hạt lúa phản công" trong không khí chuẩn bị tổng phản công trong toàn quốc. Sau đó được phổ biến rộng rãi toàn Bình Trị Thiên ra cả vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh.

Tại Đại hội Văn nghệ Thừa Thiên họp ở Mỹ Lợi, tôi cũng đã giới thiệu "Lúa vàng".

Năm 1954, hoà bình lập lại, tôi tập kết ra Bắc, về Hà Nội mới biết "Lúa vàng" được nhà xuất bản "Tinh Hoa" (Huế) in tái bản 3 lần. Bìa do họa sĩ Phi Hùng trình bày. Trang cuối in ảnh Nguyễn Hữu Thiết và Ngọc Cẩm, hai danh ca xứ Huế. Tôi còn được anh bạn cho nghe cuốn băng cối "Tiếng sáo đồng quê" của hai ca sĩ trên gồm 15 bài hát về quê hương trong đó có "Lúa vàng", phầm đệm có tiếng đàn nhị.

Khi mà Hải Phòng còn 90 ngày trước khi tiếp quản, tôi nhờ anh bạn Vũ Nhật Thăng, có gia đình ở Hải Phòng gửi cho vợ chồng Thiết một lá thư. Ít lâu sau, anh Thăng chuyển cho tôi năm nghìn (5000) đồng tiền Đông Dương, đổi ra tiền Việt (taux = 30) được 15 vạn. Tôi mua một xe đạp Follis Lyon 9 vạn. Tôi tìm đến đại diện nhà xuất bản ở phố Lương Văn Can nhưng họ đã di cư vào Nam.

Nhờ bài "Lúa vàng" một số nhạc sĩ Hà Nội không di cư đã biết tôi là tác giả ở kháng chiến về, nên trong Đại hội Đoàn Ca Vũ Nhạc Hà Nội họp đầu năm 1955 ở Câu lạc bộ Đoàn kết đã bầu tôi làm uỷ viên ban chấp hành. Cụ Lưu Quang Duyệt, giám đốc Âm nhạc học xá, một thân sĩ làm chủ tịch. Anh Trần Việt Ngũ làm chánh văn phòng. Ủy viên chấp hành còn có anh Phạm Đức Cần, Anh Tu My... Trụ sở đặt ở 18 Cột Cờ sau chuyển 63 Hàng Trống. Đồng thời, tôi được giới thiệu là uỷ viên chấp hành hội liên hiệp thanh niên thành phố do bác sĩ San làm chủ tịch. Một loạt bài hát của tôi được giới thiệu trên Đài Tiếng nói Việt Nam, như "Đưa anh thêm một quãng đường", "Gặp nhau dưới trăng", "Nên vợ nên chồng"... Riêng "Gặp nhau dưới trăng" (hay Tát nước đêm trăng) được nhà xuất bản Âm nhạc thu đĩa cùng bài "Ánh đèn cầu Việt Trì" của Hoàng Hà.

Nhạc sĩ Tô Vũ, cố vấn chuyên môn của nhà xuất bản Kuy Sơn đã tuyển chọn 20 ca khúc của tôi để giới thiệu. Bản in thử đã xong, tiền tác giả đã lấy, đùng một cái xảy ra "Nhân văn, Giai phẩm". Các nhà xuất bản tư nhân bị cấm hoạt động. Tập nhạc bị đình lại để 36 năm sau (1957 - 1993) Sở Văn hoá Thông tin Thừa Thiên Huế in 15 tình khúc Mặc Hy.

Năm 1956, nhà thơ Giang Quân cho tôi xem một bài phê bình "Lúa vàng" trên tập san "Nghệ thuật" xuất bản ở Sài Gòn, khen chất dân tộc của nét nhạc và cho rằng nhà xuất bản đã đúng khi gọi "Lúa vàng" là dân ca.

Tôi cũng được xem một tờ chương trình giới thiệu vợ chồng Thiết - Cẩm trình bày "Lúa vàng" ở Tân Xuân Đại nhạc hội năm 1951 ở lâu đài Nô rô đôm (Sài Gòn)

Năm 1986, sau hơn 30 năm xa chiến trường, tôi được anh Vĩnh Tôn (Hải Bằng) mời vào chơi Huế. Hội văn nghệ Bình Trị Thiên tổ chức một đêm giao lưu, tôi đi thăm lại chiến khu Dương Hoà, viết bài "Về lại chiến khu xưa". Mỗi năm một lần, dù sức yếu, tài chính eo hẹp, tôi vẫn sắp xếp vào thăm Huế, cầm đàn đi hát ở những vùng kháng chiến xưa.

Một số học sinh Quốc Học cũ như anh Nguyên, anh Vấn (nay cũng trên 60 tuổi) cho biết nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba cũng rất yêu "Lúa vàng" dù biết in ở Huế nhưng tác giả của nó vẫn nằm trên chiến khu tham gia kháng chiến. Trong một cuộc họp thân mật ở nhà anh Phan Thuận An, cán bộ Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế, tôi rất xúc động khi nghe gần hai chục "bà" trên 50 tuổi đứng lên đồng ca "Lúa vàng" để tác giả nghe có đúng như sáng tác của mình không?

Ở Đà Nẵng, nhạc sĩ Trần Phước Khiêm (người Huế) đã giật mình, ngạc nhiên khi gặp tôi năm 1992 vì tưởng tác giả "Lúa vàng" đã chết. Anh đã viết bài báo "Cây lúa với tình yêu âm nhạc Mặc Hy (Báo Thừa Thiên Huế).

Ở Mộc Trụ, một cán bộ xã xúc động kể chuyện cái chết của vợ chồng Nguyễn Hồng - Nguyễn Thị Lan bị Tây bắn, dẫm nát cây đàn. Nhân dân đã chôn mộ cây đàn giữa hai ngôi mộ. Anh cho biết Nguyễn Hồng thường hát "Lúa vàng" cùng nhân dân địa phương.

"Lúa vàng" cũng sang cả Thái Lan được Việt Kiều đón nhận. Chị Bạch Liên ở UĐon đã hát cho tôi nghe.

"Lúa vàng" cũng được Việt kiều Pháp, Mỹ, Canada biết đến. Em rể tôi ở Mỹ về thăm tổ quốc, nghe tôi giới thiệu "Lúa vàng" cả hai vợ chồng hát theo ngay.

Năm 1997, nhạc sĩ Dương Thụ, đại diện hãng Audio Sài Gòn ra Hà Nội xin phép tôi cho in "Lúa vàng" vào đĩa CD "Nhạc tình kháng chiến" cùng 9 bài hát khác của Trần Hoàn, Nguyễn Xuân Khoát, Hoàng Việt, Đỗ Nhuận, Lê Lôi, Lê Yên v.v... Ca sĩ Bảo Yến hát.

Năm 2000, nhà xuất bản Trẻ xuất bản "Tuyển tập 100 ca khúc tiền chiến, trong đó có "Lúa vàng" (1949 - 1950).

Trên đây là một số kỷ niệm vui nho nhỏ mà "Lúa vàng" đem lại cho tác giả.

Nhớ lại, Sài Gòn giải phóng năm 1975, mãi đến 1991, tôi mới có dịp vào thăm. Tôi tìm đến thăm anh Thiết ở một mình. Sau đó, cháu Hồng Hà, con gái anh mời tôi về thăm mẹ cháu - chị Ngọc Cẩm, nay đã biến thành một bà "xồ xề" vui vẻ đi chợ làm cơm mời tôi. Khi tôi về Bắc, Ngọc Cẩm còn dúi vào tay tôi 200 nghìn đồng cùng cuốn băng "Tiếng sáo chiều quê" và cuốn giới thiệu Thiết - Cẩm.

Mấy tháng sau, cháu Hồng Hạnh (ca sĩ con Thiết - Cẩm) cùng chồng cũng ra Hà Nội thăm tôi.

Ở cái tuổi gần 80, ngồi nhớ lại những kỷ niệm xưa về một bài hát viết từ thời trai trẻ tự trong lòng tôi xin được cảm ơn mảnh đất Thừa Thiên Huế, cảm ơn quân đội, cảm ơn nhân dân Bình Trị Thiên đã nuôi dưỡng cả tuổi trẻ của tôi, đã cho tôi cảm hứng sáng tác "Lúa vàng". Lúa vàng đã được sinh ra ở mảnh đất này, được Huế thân thương nuôi dưỡng, yêu thương. "Lúa vàng" và tác giả đã sống được đến hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ.

Một đêm mùa hè 2003

M.H
(174/08-03)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!

  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).