LÝ HOÀI THU
Ảnh: internet
![]() |
Cát bụi chân ai và Chiều chiều đều ra đời vào thập niên chín mươi của thế kỷ XX. Chọn điểm nhìn cuối thế kỷ để “khai quang” bức tranh đời sống xã hội và con người ở một thời quá khứ với nhiều gam màu ấm lạnh, nhiều biến thiên thế cuộc xoay chiều, hai tập hồi ký của Tô Hoài đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên hành trình sáng tác dài lâu, miệt mài, bền bỉ; nó như là hiện tượng thăng hoa vào tuổi xế tà của một cây bút dồi dào năng lượng và có sức chinh phục mạnh mẽ của diễn đàn văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Theo cách hiểu thông thường, hồi ký là sự hồi tưởng quá khứ, là hành vi lội ngược dòng đặng “tìm lại thời gian đã mất” bằng ký ức, hoài niệm, tâm tưởng, tâm tình… Chủ thể của hồi ký đa phần là những gương mặt/ chân dung tên tuổi trên các lĩnh vực văn hóa - văn học nghệ thuật, chính trị xã hội… có tầm ảnh hưởng và sức lan tỏa rộng lớn đến cộng đồng. Việc xuất hiện ngày càng nhiều những hồi ký của các vị nguyên thủ quốc gia, các nhà khoa học, các ngôi sao thuộc lĩnh vực giải trí như điện ảnh, thể thao… đã góp phần khẳng định sự năng động và tính dân chủ của một thể văn vốn từng bị xếp vào hạng “cận văn học” nhưng lại được tiếp nhận nồng nhiệt ở thời đại phát triển vượt bậc về công nghệ thông tin và đời sống con người luôn diễn ra trong những tương tác, cộng hưởng của các lĩnh vực từ nghệ thuật đến kỹ thuật. Khác với các dạng hồi ký mà nhân vật chính của câu chuyện - người sở hữu hồi ức - kể lại (thậm chí là bán bản quyền) để người ngoài cuộc chấp bút, hồi ký của các nhà văn bao giờ cũng mang “căn cước” riêng: tác giả chính là người trực tiếp thuật lại quãng đời đã trôi về miền dĩ vãng bằng ngôi kể xưng “tôi” hiển thị trên văn bản. Đó chính là cơ sở cốt yếu/ quan trọng để định danh các tác phẩm hồi ký văn học.
Trong văn chương, nếu coi mỗi thể loại là một cách giải minh thế giới thông qua cơ chế nhận thức, cảm thụ đặc trưng thì hồi ký nói riêng cũng như ký văn học nói chung đều có cùng phẩm chất nổi bật là tính xác thực của nguyên mẫu. Nghĩa là hệ thống nhân vật hiện diện trong tác phẩm tuy đã được nghệ thuật hóa để trở thành những hình tượng văn học nhưng luôn được xem xét, đánh giá dưới quyền uy của “mã sự thật”. Chính vì vậy, đến với thể loại ký, dường như từ lâu đã hình thành một quy ước ngầm giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận: tác giả luôn phải chứng minh/ cảm hóa bằng những điều “mắt thấy tai nghe”, và người đọc cũng luôn đặt niềm tin vào sự trung thực của ngòi bút nhà văn. Đây gần như là một “mặc định nghệ thuật” riêng có của dòng văn chương “phi hư cấu”. Đặt trong bối cảnh văn học thời kỳ đổi mới cuối thế kỷ XX đầu XXI, khi cả chủ thể sáng tác và chủ thể tiếp nhận đều gặp gỡ nhau ở tâm thế khám phá/ nhận thức lại một số vấn đề của lịch sử bằng tư thế nhìn thẳng, nói thẳng cùng ý thức đối thoại, phản biện riết róng; chúng ta có thể lý giải sự lên ngôi và khả năng chiếm lĩnh thị hiếu của một loạt các tác phẩm hồi ký - một thể loại dẫu nói về quá khứ nhưng luôn khăng khít với hiện tại, biến những trải nghiệm quá khứ thành kinh nghiệm góp phần soi sáng và giúp hậu thế lựa chọn lối ứng xử thích hợp cho đời sống hôm nay. Đó chính là lý do tồn tại trong ý nghĩa sâu xa mà đông đảo độc giả hằng đón đợi ở thể hồi ký. Cát bụi chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài đăng đàn dưới bầu không khí đổi mới cùng hệ sinh thái tinh thần cởi mở, hào hứng; là hai thiên hồi ký lưu được dấu ấn sâu đậm và có giá trị trên nhiều phương diện: nổi bật nhất là năng lực kiến tạo sự phức hợp thể loại và đặc điểm tư duy nghệ thuật.
Khác với các tác phẩm có yếu tố tự truyện của chính Tô Hoài viết trước Cách mạng tháng Tám và gần hơn là trước 1985 như Mười năm, Quê người, Cỏ dại…, Cát bụi chân ai và Chiều chiều ghi nhiều dấu ấn trong những tìm tòi, cách tân về nghệ thuật tự sự và thi pháp thể loại. Bước đột phá mang tính sáng tạo ấy đã tạo nên sự phức hợp thể loại, góp phần đa dạng hóa diện mạo hồi ký và đưa hai tác phẩm lên vị trí đỉnh cao trong sự nghiệp của Tô Hoài. Tính chất phức hợp chỉ diễn ra khi giữa các thể loại có sự hòa trộn, giao thoa làm mờ nhòe ranh giới, động thái ấy là một phương thức hữu hiệu nhằm thiết lập phẩm tính mới, đánh thức tiềm năng và hồi sinh thể loại. Diễn giải theo hệ quy chiếu đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy hồi ký của Tô Hoài có sự tương giao mật thiết với tiểu thuyết, từ việc mở rộng tầm vóc/ quy mô hiện thực đến cảm hứng thân phận và lời giải đáp về con người cá nhân, từ khả năng chiếm lĩnh bức tranh đời sống phồn tạp, đa màu đến sắc thái diễn ngôn, giọng điệu trần thuật… Nếu Cát bụi chân ai xoáy sâu vào những nếm trải/ sóng gió của số phận qua các chân dung văn nghệ sĩ và bè bạn cùng thời như Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Nguyên Hồng, Đặng Đình Hưng,… thì Chiều chiều lại chú trọng hơn đến sự mở rộng chiều kích không - thời gian bằng thủ pháp lồng ghép, đan cài hồi ức, hoài niệm như một mạng lưới hiện thực tâm trạng để tạo phông nền, hoàn cảnh cho sự hiện diện của Phùng Quán, Hoàng Trung Thông, Phan Khôi, Như Phong, ông Ngải nông dân, các nhà văn/ dịch giả Xô Viết như Marich, Ira, Vlat, Leeon, Ina… và của chính Tô Hoài qua các chặng đường tham gia cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, đi thực tế sáng tác “3 cùng” với công nông binh, học chính trị trường Nguyễn Ái Quốc, xuất ngoại giao lưu cùng bạn bè quốc tế v.v. Về mặt dung lượng, Chiều chiều có khuôn khổ tương đương với một tiểu thuyết có kích thước lớn. Song, như trên đã nói, đây chỉ là nền cảnh. Ấn tượng sâu đậm nhất của hồi ký Tô Hoài thuộc về nhân vật. Nhà văn đã có sự kết hợp hài hòa, khéo léo giữa bút pháp hồi ký và nghệ thuật tiểu thuyết để khắc họa chân dung và khám phá sâu vào đời sống nhân vật. Trung thành với ý hướng tôn trọng sự thật khách quan, nhìn nhân vật ở cự ly gần, những con người bằng xương bằng thịt ở ngoài đời bước vào tác phẩm của Tô Hoài thật sinh động với đủ tính khí, thói tật, tài năng và danh phận. Đằng sau những nét bút tả thực về trang phục khác người “khăn lượt vố, áo gấm trần, tay chống chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định” của Nguyễn Tuân; về chòm râu, những hàng nước mắt ròng ròng, lã chã rơi trên gương mặt phúc hậu của Nguyên Hồng; về thói quen “nghiêng mặt phồng má nhổ râu” của Hoàng Trung Thông; về hình ảnh Nguyễn Công Hoan đi “dự quốc khánh, lễ lạt sứ quán nào cũng diện đôi giày da bóng lộn” với lý lẽ “dự tiệc đứng thì hay đi đi lại lại, người ta cứ phải nhìn giày mình, cho nên cần có giày tử tế” và lời giải đáp vừa hài hước, vừa chua chát: “Không, giày này tớ đi mượn. Cậu nhận xét cũng xoàng. Có là giày đi mượn thì mỗi tiệc mới một đôi khác nhau chứ” (!) (Chiều chiều, tr110); về Phan Khôi với “cái khinh khỉnh bụng một bồ chữ, đối đáp ngang như cua nhưng không biết giận, cốt nói ngang hơn, to tiếng vặc lại chỉ vì không để bụng lâu”, bởi một điều hết sức đơn giản: “không ương bướng thì đã không phải là Phan Khôi” (Chiều chiều, tr531); về bài thuốc cai nghiện của Sao Mai “có gia giảm cả vị phụ nữ” và cái kết rất có hậu, đậm chất umua: “Tôi lại khoái ông có máu đa tình mà lại chung thủy, léng téng với ai rồi cũng lấy người ta”; về nết ga-lăng, cách tán tỉnh đã thành nghề “thấy gái như quạ vào chuồng lợn, như ếch vồ hoa. Thề bồi đấy rồi lại nhãng ngay đấy” của Nguyễn Bính; về những đêm mưa lạnh, buồn và căn bệnh “tình trai” da diết, muộn sầu, bế tắc của Xuân Diệu v.v. Tô Hoài đã gửi gắm, ký thác vào đó bao suy tư, chiêm nghiệm về cõi nhân thế để tái tạo nên những nhân vật mang đậm tố chất tiểu thuyết. Cùng sở hữu phong thái tài hoa, nghệ sĩ nhưng mỗi cá nhân lại có đời sống riêng, những nỗi niềm, vui buồn, hạnh phúc, khổ đau, cô đơn và bi kịch không thể sẻ chia, không hề vơi cạn. Đó là Nguyễn Tuân suốt đời khao khát chinh phục một thứ nghệ thuật toàn mỹ nhưng dường như không thể dung hòa lý tưởng/ mộng ước với thực tại; là Nguyên Hồng tài năng sớm nở nhưng lại loay hoay, chật vật về cuộc đời; là Nguyễn Bính đào hoa, đa tình mà long đong, trắc trở tình duyên và một đời chông chênh giữa ngọt ngào, cay đắng; là Xuân Diệu với “một khối tình” ai tỏ… Và chính Tô Hoài, một kiểu hình tượng tác giả cũng đã được soi chiếu từ nhiều phía theo nguyên lý “ô màu lập phương”. Có thể là lời tự thú can đảm: “Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanh thẳm lá rừng, ở ruộng nước thì lổ đổ màu lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng như cánh hoa rơi” (Chiều chiều); hoặc từ những phát ngôn của Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Như Phong… về con người và văn chương, trong đó có cả những chỉ trích, đay nghiến nặng nề: “Chó biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của mày” và “mày hút phí thuốc lá” - Nguyễn Tuân (Cát bụi chân ai - tr 159). “Tôi chưa xem bài nào của anh. Chẳng biết anh viết có ra cái gì. Nghe có người nói anh viết truyện con giun, con dế” - Phan Khôi (Chiều chiều, tr 40). “Thằng ngoại ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt” - Như Phong (Cát bụi chân ai, tr 105). “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn. Ông thì không” - Nguyên Hồng (Cát bụi chân ai, tr 118) v.v… Nhưng Tô Hoài đã không né tránh, dám chấp nhận những thiếu khuyết để khẳng định bản thể, để khước từ lối miêu tả con người chỉ thiên về phía ánh sáng, về phần tốt đẹp và cao quý của hồi ký trước đây. Với Tô Hoài, mỗi con người là một nhân vị, không thể pha trộn, xóa mờ: “Ô hay, người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ” (Cát bụi chân ai)… Góp mặt vào sự đông đúc của thế giới nhân vật như một cõi người thu nhỏ, trong hồi ký Tô Hoài, bên cạnh những tên tuổi lớn của giới văn nghệ sĩ Việt Nam đương thời còn có sự hiện diện của nhiều tầng lớp thuộc nhiều miền đất, phương trời khác nhau: từ những người nông dân ở Thái Bình, Thanh Hóa đến người phụ nữ vùng cao Tây Bắc, từ những người lao động, tiểu thương nghèo trong một khu phố, một nhà ga của thủ đô Hà Nội đến các dịch giả, nhà văn ở các quốc gia Á, Phi, Âu, Mỹ… tất cả những nguyên mẫu có gốc gác, địa chỉ cụ thể đó dù mang lai lịch, địa vị xã hội khác nhau nhưng đều gặp gỡ nhau ở những nếm trải số phận. Chung quy, họ là những nhân vật đã được tiểu thuyết hóa, thoát khỏi sự ràng buộc về độ xác thực đôi khi chật hẹp của ký để trở thành hình tượng nghệ thuật sống động với đầy đủ hỷ, nộ, ái, ố của thân phận con người.
Nhằm kiến tạo dáng dấp tiểu thuyết cho Cát bụi chân ai và Chiều chiều qua tầm vóc hiện thực và hình bóng nhân vật, Tô Hoài đã vận dụng một kiểu tư duy nghệ thuật năng động, linh hoạt, nhiều đổi mới và sáng tạo. Nó là sự phản chiếu năng lực khám phá và nhận thức hiện thực bằng chuỗi cảm xúc, trí tuệ, vốn sống, tài năng, thế giới quan và nhân sinh quan của nhà văn. Nếu sáng tác là một quá trình và phân đoạn trực quan sinh động là sự mở đầu hết sức quan trọng thì Tô Hoài ngay từ những tác phẩm đầu tay đã báo hiệu một lối cảm nhận trực giác vô cùng nhạy bén. Tài quan sát tỉ mỉ của ông đã sớm bộc lộ và trở thành vốn quý trong hành trang của một cây bút được trải đều trên trang văn từ thời Dế mèn phiêu lưu ký, Giăng thề, Cỏ dại đến Miền Tây, Quê nhà, Cát bụi chân ai, Chiều chiều…Trước mỗi bức tranh thực tại đa sự, muôn màu và con người thì đa đoan, phức tạp, Tô Hoài đã nhào nặn/ chế ngự nó bằng các chi tiết độc đáo và luôn nhập tâm kinh nghiệm thẩm mỹ của nhà văn Heming Way, đại ý: người viết có thể sáng tạo, nghĩ ra chủ đề, nhân vật, câu chuyện, nhưng không bao giờ nghĩ ra được chi tiết. Chỉ có sống mới có chi tiết (Theo Hà Minh Đức: Tô Hoài, sức sáng tạo của một đời văn – Nxb. Giáo dục Việt Nam, H. 2010, tr 39). Cát bụi chân ai và Chiều chiều đã chọn lọc được nhiều chi tiết “đắt”, có sức nặng và độ điển hình khái quát. Đó là chiếc mũ vải kaki khi đội lên Tô Hoài trông như một ông già Nhật mà thực chất được cụ chủ hiệu mũ Triphooca ở phố Hàng Gai khâu lại từ chiếc quần cũ rách gối và tiền công là chỗ vải thừa; là tiếng kêu tòe tòe từ chiếc sáo Mèo của Tô Hoài khiến Nguyễn Tuân phải than: “ông cất đi cho tôi nhờ. Nghe ông thổi sáo, tôi đau tai hơn đau chân thấp khớp”; là chi tiết “cái gáy thằng Mỹ nát nhẽo” trần trụi, ghê ghê bên cạnh nét chấm phá tinh tế hồn sắc thơ Nguyễn Bính, tuy không chìm đắm vào mỹ cảm thi vị hóa như chủ thể trữ tình, nhưng lối miêu tả có sức gợi cảm đã mang chất thơ vào những trang văn của Tô Hoài qua liên tưởng cùng sự đong đầy cảm xúc mến cảnh, thương người: “Thơ Nguyễn Bính, tình buồn mà cảnh đẹp, nhưng những lũy tre làng Tiện Vinh, đồng chiêm ngập nước loi ngoi cỏ lẫn lúa, xơ xác… Gió ào ào qua rặng tre nghiến răng. Những thôn Đoài nhớ thôn Đông và đám rước quan trạng vinh quy qua làng ở trên cao xanh kia trang nghiêm đẹp đẽ biết bao… Trước hiên, giàn đỗ ván đã quăn queo còn vướng lại mấy quả khô đen như bồ kết thế mà mưa xuân đương độ “phơi phới bay”, vẫn nở một đóa hoa tím ngẩn ngơ” (Cát bụi chân ai, tr 225) v.v. Tuy nhiên, với tư cách là một cây bút giàu trải nghiệm và sức mạnh nội lực, Tô Hoài không lạm dụng tài quan sát mà biết thay thế ánh nhìn thị giác sắc sảo bằng cái nhìn nội tâm, nhìn từ bên trong thấu thị, sâu sắc. Chính vì thế, bức tranh được phản ánh và tái tạo trở nên ám ảnh, lắng đọng hơn bởi hình thái tư duy được bồi đắp thêm nhiều suy tư, nghiền ngẫm. Thế giới nghệ thuật hồi ký Tô Hoài bao gồm quan niệm về đời sống xã hội và con người, hệ thống hình tượng, biểu tượng, đặc điểm thi pháp, sắc thái ngôn ngữ, giọng điệu…; theo đó đã mang hình hài và bản chất tổng hợp nhiều bè mảng của tiểu thuyết, đạt giá trị nhận thức to lớn nhờ việc phá vỡ lằn ranh giới hạn không/ thời gian đơn tuyến khá hạn hẹp của hồi ký truyền thống. Ở Hà Nội lại quay quắt nhớ về Việt Bắc. Đến Thái Bình vẫn không quên vùng đất nghèo Thanh Hóa. Sống tại Việt Nam mà khắc khoải không nguôi về sự tan rã của liên bang Nga - Xô, đi Ôđétxa bây giờ phải có hộ chiếu như đi Mỹ, vì “đến Ôđétxa đã là sang nước khác rồi”, về sự sụp đổ của bức tường Béc - Lin, về những đêm thảo nguyên Mông Cổ dài như cổ tích và câu chuyện đời người đàn bà nghìn năm vẫn u uất v.v. Đặc biệt hơn, khi được tắm gội trong bầu sinh quyển của văn học thời kỳ đổi mới, với tư duy tái nhận thức và tâm thái cởi mở, coi hành vi viết như một sự “trả nợ” những lỗi lầm một đi không trở lại, hồi ký Tô Hoài đã “vén lên” những bức màn tưởng đã bị lãng quên/ ngủ yên trong quá khứ, khơi dậy ý thức phản tư và tính đối thoại đa chiều.
Ngoài ra, bên cạnh sự phức điệu của kết cấu văn bản, tính đa dạng về sắc màu thẩm mỹ, dấu hiệu tiểu thuyết trong hồi ký Tô Hoài còn được hiển lộ ở sự phối kết, pha trộn liên sắc màu của bức tranh đời sống tổng hòa: thiên nhiên và xã hội, lịch sử và văn hóa, chính trị và đạo đức… Am tường nhiều lĩnh vực, đầy đặn về tri thức văn hóa học, những trang viết về các làng nghề, về phong tục, tập quán, lễ hội của cư dân ven đô Hà Nội, về trang phục, nghệ thuật ẩm thực Á, Âu: chẳng hạn, bằng những so sánh nhằm tôn thêm sự sành sỏi trong cách ăn uống thưởng thức của bao đời ông cha ta qua giọng giễu cợt vui vui của một đầu bếp Việt có tiếng: “Nấu nướng cho Tây chẳng khó như cao lâu Tầu. Hành mỡ phi thơm lừng, Tây nở mũi, thế là khen “bồong”. Các ông để ý xem, hèn nhất là cái mặn muối, thế mà Tây cứ phải có lọ muối như bát hương mả tổ nhà nó để giữa bàn. Động một tý lại rắc muối, thế thì mất hết cái ngon. Các cụ nhà ta kén đến hàng chục loại nước mắm vẫn còn chưa bằng lòng” (Cát bụi chân ai, tr 29); hoặc lời bình của chính Nguyễn Tuân - một ngòi bút có hạng trong khoa ẩm thực, “quả là ăn bánh cuốn phải chấm nguyên xi nước mắm chắt Nghệ mới lên chất, chứ đoảng nhất đem pha dấm - dấm và muối, phương Tây thô, chỉ biết mặn khác nhạt trơ ra như con số, người mình không thế” (Cát bụi chân ai, tr 97) v.v, qua hai tác phẩm đã khơi gợi nhiều hứng thú, làm đầy hơn bức khảm văn hóa bằng các mã/ ký hiệu đặc trưng của mỗi vùng quê trên dải đất Việt Nam.
Những sáng tác cuối đời của Tô Hoài luôn có sức tỏa nhiệt và thực sự là những “rung chấn” làm xôn xao, sôi động văn đàn ở một thời chưa xa, đáng chú ý là tiểu thuyết mang đậm yếu tố tự truyện Ba người khác từng gây bất ngờ, tạo làn sóng dư luận có đủ hai chiều thuận - nghịch. Điều đó đã khẳng định một cách sinh động cá tính nghệ thuật, tài năng và sức sáng tạo phi tuổi tác của Tô Hoài.
Được dẫn dắt bởi nguyên lý ngược dòng thời gian, song Cát bụi chân ai và Chiều chiều có thể coi là những phiên bản hồi ký mang “thần thái” và sắc diện của lối viết hiện đại. Ở đó có sự kết hợp giữa tình cảm và lý trí, giữa những rung động ấm áp của con tim và sự phán xét lý tính lạnh lùng, giữa sự miên man đến lê thê của màn sương mù ký ức với sự sáng tỏ của tri giác… Hai tác phẩm là những dấu son không thể thay thế trong hành trình sống và viết với nhiều thành tựu/ cống hiến của nhà văn Tô Hoài - một tên tuổi sáng giá trên văn đàn Việt Nam hiện đại và đương đại.
Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2020
L.H.T
(TCSH381/11-2020)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH