Hoàng Trọng - vua Tango nhạc Việt

10:50 15/10/2008
NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).

Hoàng Trọng đang chỉ huy dàn nhạc

 Tôi còn nhớ ca từ của mấy đoạn như sau (Dễ nhớ vì bài hát chỉ có một đoạn đơn):
1. Biết đến bao giờ gặp lại người em thời thơ ấu
Để báo tin rằng cuộc đời từ nay đã khác xưa
Một phút gần nhau rồi tình mãi mãi lìa xa
Quà nghèo chỉ có lời ca
Tặng nàng trước khi từ giã

2. Hết ấu thơ rồi lại gặp em trong tiệc cưới đây
Thoáng nét môi cười rượu nồng và bao cặp mắt say
Đàn hãy nồng say mừng nàng hát khúc tình ca
Quà nghèo chỉ có lời ca
Tặng nàng trước khi giã từ

Một thời dài chiến chinh, tình ca “Giã từ” đã theo nhiều trai tráng vào lính, họ thường hát bài này giây phút tiễn đưa và sau đó là những phút nhớ người yêu ở chiến trường khốc liệt. Đến thời thanh bình, những chuyên gia quân sự Liên Xô còn ở Việt Nam, có những người đã tập hát “Giã từ” bằng tiếng Việt một cách thích thú và nghĩ rằng bài hát nước mình được dịch ra tiếng bạn hay quá. Mãi đến thời mở cửa, khi tôi mở “chiến dịch” nghiên cứu các “đại ca tiền chiến” thì mới té ngửa ra rằng, bài hát mà tôi từng đinh ninh trên chính là một đoạn đầu một bản tango mang tên “Tiễn bước sang ngang” của tác giả Hoàng Trọng viết tại Sài Gòn năm 1959. Chỉ có điều ca từ đã được thay bằng ca từ có vẻ thời đại hơn ca từ của chính tác giả tuy các câu mở đầu đều được giữ nguyên. Bài này phần lời của Hồ Đình Chương. Bởi thế, Hoàng Trọng trở thành một ẩn số ấn tượng trong dự định tìm hiểu của tôi. Đến bây giờ, khi tôi gặp chính con trai tác giả - nhạc sĩ Hoàng Nhạc Đô tại thành phố Cần Thơ thì ẩn số đã được giải. Hoàng Trọng hiện ra giữa lịch sử Tân nhạc Việt Nam như một “ông vua” của tiết điệu Tango - một điệu nhảy của người Mỹ Latinh, đã du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX.

Hoàng Trọng sinh năm 1922, đồng niên và đồng hương Hải Dương với Đỗ Nhuận. Nếu Đỗ Nhuận xuống Hải Phòng học nhạc thì ngược lại, Hoàng Trọng lại lên học nhạc ở Hà Nội từ năm 11 tuổi. Đến năm 15 tuổi thì Hoàng Trọng đã lập ban nhạc riêng anh em trong gia đình với sự tham gia của các thân hữu như Đan Thọ, Đặng Thế Phong, Tạ Phước, Bùi Công Kỳ. Họ vừa chơi nhạc vừa sáng tác bài hát. Ngay từ năm 1938, Hoàng Trọng đã viết bài hát “Vầng trăng sáng” theo nhịp Valse chậm như một bài tập xinh xắn đầy âm hưởng phương Tây:
Vầng trăng sáng lắng soi bên thềm
Chiều mây nước tiếng dương êm đềm
Lòng sầu vương buồn lan theo gió
Nhớ thương ai khắc khoải chờ mong...

Hoàng Trọng cứ thế đắm chìm vào âm nhạc giữa kinh kỳ phồn hoa những năm thế chiến Hai đầy biến động. Vào năm 1945, Hoàng Trọng mở phòng trà “Thiên Thai” đầu phố Hàng Gai - Hà Nội và lập ra ban nhạc “Thiên Thai”. Toàn quốc kháng chiến, nhiều nhạc sĩ Hà Nội rời khỏi kinh kỳ, nhưng do nhiều hoàn cảnh khác nhau, họ lại tìm về Hà Nội để nối tiếp dòng âm nhạc lãng mạn thời tiền chiến. Những năm đầu thập kỷ 50 thế kỷ trước, ở Hà Nội, giới yêu nhạc gọi Đoàn Chuẩn là “vua lục huyền cầm Hạ - Uy - Di), Ngọc Bích là vua nhạc Swing. Còn Hoàng Trọng là vua nhạc Tango. Từ “Bóng trăng xưa” viết 1940, Hoàng Trọng đi tới “Phút chia ly” viết 1948 và hằn lên một ấn tượng bởi “Đường về” viết 1950, một bản tango mẫu mực có thể đưa vào sách giáo khoa dạy khiêu vũ. Chỉ một câu nhạc mở đầu đã thấy cái chất tango luồn lách, uyển chuyển, gợi cảm:
Đường về xa vời gieo thương nhớ trong lòng
Hồn quê lai láng khi ánh chiều rơi
Đã mấy thu xưa qua rồi
Khi gió sầu đông mang về
Lòng buồn mang mác niềm nhớ...


Sau đó là những “Bên sông đưa người” (1951), “Mộng lành” (1956), “Ngỡ ngàng” và “Tiễn người sang ngang” (1958), “Em còn nhớ không” (1961), “Hai phương trời cách biệt” (1963), “Sao cho trọn niềm vui” (1966)... chính cái tham vọng tiếp tục dòng nhạc Tango này mà Hoàng Trọng phải di cư vào Nam. Ngay năm 1955, ông đã lập ra ban nhạc Tây Hồ ở Sài Gòn với nhiều tên tuổi.
Nếu những sáng tác mang tiết điệu Tango cho Hoàng Trọng có nét riêng khác người, thì nhiều sáng tác khác của ông lại gây nên một ấn tượng tình ca mang âm hưởng dân gian cũng rất đặc sắc. “Nhạc sầu tương tư” ông viết năm 1953 là một ví dụ. Trong CD “Về bến mơ” khá công phu của mình, ca sĩ Quỳnh Hoa, một ca sĩ có khả năng hát và nhảy nhạc tango rất quyến rũ đã không ngần ngại chọn cả “Đường về” và “Nhạc sầu tương tư” của Hoàng Trọng.

Hoàng Trọng cứ nghiêng ngả giữa hai miền cảm hứng như thế và đến “Khói chiều” ông viết 1960, thì dường như đó là tác phẩm hội tụ tất cả các ngả tư duy của ông để hoà hợp nên một tác phẩm có tầm cỡ của một Aria thuần Việt. Đoạn đầu của nhạc phẩm được viết ở giọng đô trưởng với âm hưởng dân gian:
Buồn lên mấy ngọn (là ngọn) tre chiều
Nắng phai duyên lá sáo diều im hơi
Khói chiều lên ngút (lên ngút) chân trời
Đầu sông chạnh nhớ đến người cuối sông
Không biết bài thơ “Anh ở đầu sông em cuối sông” của Hoài Vũ sau này mà Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc rất hay khi có tham khảo ca từ trên không?
Đến đoạn tiếp theo, Hoàng Trọng chuyển điệu rất xa sang pha thứ tức là giọng thứ đồng âm với giọng pha trưởng. Hạ át âm của giọng đô trưởng. Một chuyển điệu lạ trên những câu lục bát quen:
Hôm qua mình đứng bên cầu
Lơ mơ nhớ lại hôm đầu xa quê
Bao năm đi chẳng trở về
Thiết tha lại nhớ câu thề nước non
Khói hoàng hôn, khói hoàng hôn
Ngừng bay ta gửi chút buồn nhớ quê

Bỗng nhớ một câu thơ Huy Cận: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Lại nhớ đến “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu và sau cùng là câu lý “Chiều chiều ra đứng tây lầu tây”. Âm hưởng “khói hoàng hôn” vừa thoáng thành pha trưởng cuối đoạn pha thứ thì lại chuyển rời sang rê thứ, giọng thứ đồng hoá biểu với pha trưởng. “Một ngọn khói cứ u uẩn trong tâm trí”:
Ngắm hoàng hôn lại nhớ nhà
Khói hoàng hôn tản thế mà quạnh hiu
Và “khói hoàng hôn” đã bay thành giọng son trưởng ở cuối bài một cách rất tự nhiên như chính câu lục bát kết:
Bâng khuâng chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng lâng lâng gợi ít nhiều nhớ thương

Sau thống nhất đất nước, Hoàng Trọng lui về ẩn dật, dạy nhạc tại gia ở chợ Cầu Muối, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh. Với hoàn cảnh khó khăn thời bấy giờ cộng với nỗi buồn nhớ hai con Fa, La bên nước ngoài. Ông đã phải chiều ý cho các con bảo lãnh đi Mỹ năm 1990. Ông từ trần vào chính Ngọ ngày 17/7/1998 sau khi chỉ huy giàn nhạc giao hưởng Tiếng Tơ Đồng kỷ niệm 60 năm âm nhạc Hoàng Trọng tại San Jose California vì bệnh tim. Ông để lại đời trên 200 ca khúc đã xuất bản thịnh hành trong và ngoài nước cùng những bài hợp xướng đã từng trình diễn trong ban nhạc Tây Hồ và Tiếng Tơ Đồng của ông. Ông thọ 77 tuổi. Tập nhạc tuyển “Một đời còn lại” của ông do con trai ông là nhạc sĩ Hoàng Nhạc Đô tuyển chọn xuất bản trên 100 ca khúc như tổng kết lại một vận hội say mê sáng tạo âm nhạc của Hoàng Trọng (1938 - 1998) với rất nhiều đóng góp trong ngôn ngữ và cấu trúc, đặc biệt là với tiết điệu Tango. Có thể nhận ra ở đó những cung bậc tình cảm mà ông đã gửi gắm suốt cuộc đời không ít sóng gió. Cuộc đời đã đưa ông trở thành một tên tuổi trong lịch sử Tân nhạc Việt . Một tên tuổi đáng được ghi nhận và đáng nhớ mãi mãi.
N.T.K

(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • MẶC HY    Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!