Họa sĩ - Nhà giáo Nhân dân Uyên Huy vừa hoàn thành cuốn sách Mỹ thuật đô thị Sài Gòn - Gia Định 1900 -1975 như sự tri ân với vùng đất mà ông đã sinh ra, lớn lên và có nửa thế kỷ hoạt động mỹ thuật.
Các tượng, phù điêu trang trí trước mặt tiền Nhà hát Lớn Sài Gòn xưa do người Pháp thực hiện là những tác phẩm vô cùng chuẩn mực - Ảnh: Tư liệu
Đây có thể coi là tác phẩm đầu tiên phác họa bức tranh toàn cảnh về mỹ thuật đô thị Sài Gòn xưa trong dòng chảy lịch sử - văn hóa của vùng đất này.
Nhân dịp này, Thanh Niên có cuộc trò chuyện với họa sĩ Uyên Huy.
* Thưa họa sĩ, cuốn sách đề cập tới rất nhiều mảng của hoạt động mỹ thuật tại đô thị Sài Gòn - Gia Định xưa, từ lịch sử các trường mỹ thuật, các khuynh hướng sáng tác, các tác giả, tác phẩm tiêu biểu, dòng chảy về lý luận mỹ thuật, quy hoạch đô thị và các công trình kiến trúc điển hình... Trong bức tranh toàn cảnh ấy, ông thấy tính chất nào của mỹ thuật đô thị Sài Gòn xưa là đặc biệt, nổi trội?
- Họa sĩ - Nhà giáo Nhân dân Uyên Huy: Đó là tính cởi mở và đa dạng. Kể từ khi người Pháp bắt đầu quy hoạch Sài Gòn năm 1861, hệ thống cai trị, sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, các công trình kiến trúc, quy hoạch đô thị của họ đã ảnh hưởng lớn tới đời sống và nhận thức mỹ thuật của người Sài Gòn - Gia Định xưa. Chỉ trong vòng 13 năm (từ 1900 - 1913) người Pháp đã thành lập liên tiếp ở vùng đất này 3 ngôi trường dạy mỹ thuật ứng dụng đầu tiên của cả nước (Trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một, Trường Mỹ nghệ Biên Hòa, Trường Trang trí mỹ thuật Gia Định), trong lúc miền Bắc và cả khu vực Đông Nam Á chưa có một trường mỹ thuật nào; đồng thời đưa một số người dân bản địa sang Pháp học mỹ thuật.
|
Sau khi Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở miền Bắc được thành lập vào năm 1925, nhiều nghệ sĩ miền Nam đã học mỹ thuật ứng dụng ở Sài Gòn lại tiếp tục học mỹ thuật tạo hình ở đây rồi trở về Sài Gòn làm việc, khiến cho mỹ thuật Sài Gòn phát triển mạnh ở cả hai mảng ứng dụng và tạo hình, khác với miền Bắc chỉ tập trung vào tạo hình. Mặt khác, từ năm 1900 Sài Gòn - Gia Định đã là nơi hoạt động giao lưu buôn bán theo nền kinh tế thị trường, đi cùng với nó là sự tự do trong tư duy sáng tác, sau đó nhiều họa sĩ từ Pháp, Mỹ về giảng dạy, nên từ năm 1954 - 1975 mỹ thuật phát triển mạnh với rất nhiều khuynh hướng và tư tưởng nghệ thuật: mỹ thuật vị nghệ thuật, mỹ thuật cách mạng, mỹ thuật phản chiến, mỹ thuật thương mại...
* Ông dành số trang khá lớn trong cuốn sách để nói đến sự phong phú của hoạt động đồ họa và quảng cáo ở Sài Gòn - Gia Định xưa, điều ít nhà nghiên cứu đề cập tới, và cho rằng những người chỉ đề cao mỹ thuật tạo hình mà coi thường mỹ thuật ứng dụng là “quá kém về nhận thức”. Vì sao vậy?
- Tư tưởng trên thường có ở những nghệ sĩ vốn sống ở khu vực từ lâu không có trường dạy về mỹ thuật ứng dụng, hoặc trong một nền kinh tế không có sự cạnh tranh thương mại, ở khu vực ấy thì mỹ thuật ứng dụng không thể nào phát triển được. Trong khi ở các nước tiên tiến hai mảng này gần như mất đi ranh giới và phát triển ngang bằng nhau.
Sau khi người Pháp thành lập 3 trường mỹ thuật ứng dụng đầu tiên, đến năm 1971 chính quyền Sài Gòn đã cho nâng Trường trung học Trang trí mỹ thuật Gia Định thành Trường quốc gia Trang trí mỹ thuật Gia Định, cho thấy họ rất coi trọng mảng mỹ thuật ứng dụng. Những họa sĩ từ các ngôi trường ấy đã đóng góp hiệu quả cho nền kinh tế miền Nam, trong rất nhiều hoạt động đồ họa, quảng cáo: vẽ mẫu thiết kế quảng cáo, vẽ bìa sách, bìa các bản nhạc, bao bì sản phẩm, vẽ quảng cáo cho các rạp chiếu phim, rạp cải lương, vẽ quảng cáo sản phẩm trên báo chí, thiết kế tem bưu chính, bích chương, truyện tranh, mẫu tiền kim loại...
|
Thật thú vị khi nhiều tác phẩm điêu khắc đang hiện diện ở các không gian công cộng Sài Gòn hay chỉ còn trong trí nhớ một số người đã được ông hệ thống lại và đưa vào sách với những câu chuyện thịnh suy quanh chúng. Hóa ra không phải tượng xưa nào cũng đẹp, và dù nhiều nhưng vẫn có danh nhân đáng được Sài Gòn tạc tượng lại chưa hề được tạc...
Vâng, giới nghệ sĩ chuyên nghiệp ở Sài Gòn từng vô cùng bức xúc trước hệ thống tượng đài quân đội và các danh tướng ngày xưa kém chất lượng xuất hiện trong thành phố, kết quả của một cuộc “chạy đua chào mừng” năm 1966. Và tôi cho rằng, lẽ ra Sài Gòn đã phải tạc tượng Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, người xác lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Sài Gòn - Gia Định xưa từ lâu rồi!
* Người đọc cũng có thể xem cuốn sách của ông là một cẩm nang về các công trình kiến trúc tiêu biểu của Sài Gòn xưa. Ông nghĩ gì khi gần đây do yêu cầu xây dựng các công trình mới, nhiều kiến trúc cũ thân thuộc với người Sài Gòn hơn nửa thế kỷ nay phải phá bỏ?
- Việc phá bỏ những công trình cũ do yêu cầu mới của cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm việc này một cách thận trọng, vì những công trình tiêu biểu còn mang trong chúng cái hồn và lịch sử của cả thành phố. Trong quá trình phát triển, nhiều đô thị trên thế giới đã quy hoạch rõ ràng khu vực nào phải giữ lại, khu vực nào được xây mới... Thành phố chúng ta cũng phải làm việc này một cách cấp bách. Nếu không những người đi xa chừng vài chục năm sẽ không thể nhận ra Sài Gòn, còn những người đang sống ở Sài Gòn sẽ cảm thấy xa lạ ngay trên thành phố của mình.
Xin cám ơn ông.
Nguồn: Phạm Thu Nga - TNO
TUỆ NGỌC
Lê Anh Hoài là người thực hành nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực như văn học, hội họa, trình diễn...
TUỆ NGỌC
TUỆ NGỌC
LÊ HUỲNH LÂM
"Nghệ thuật không phải là vẽ lại các đồ vật, con người mà họa sĩ thấy. Nghệ thuật phải là sáng tạo nên các đồ vật, con người không thấy được."(Paul Klee)
LÊ HUỲNH LÂM
Tánh nước vốn vô hình và mềm mại. Nhưng nước lại có quyền năng biến hiện và tùy duyên hóa thân thành mọi vật, có khi là đám mây, khi là cơn mưa, có khi làm ngọn sóng cao vút nhấn chìm mọi vật, có lúc là những đợt sóng êm đềm, là dòng sông, con suối, là thác ghềnh, là biển cả bao la,... lại có khi là giọt lệ trên khóe mắt con người. Tuy nước rất mềm mại nhưng sức mạnh của nước có thể xô ngã mọi tượng đài tưởng chừng là thường hằng ở mặt đất này.
LÊ HUỲNH LÂM
Sản phẩm từ cái khuôn mẫu đầu tiên đã đặt định con người trong thế bị động, và từ khởi thủy đầy hư cấu và huyền thoại đó bao nhiêu trí tưởng tượng đã được tạo dựng, việc chế tác một khuôn mẫu mới cho con người đã được đề cập đến nhiều lần.
Nhiều điều bí ẩn giấu đằng sau những chi tiết có thể nhìn thấy bằng mắt thường trong bức tranh "Susanna and the Elders" (Susanna và các Trưởng lão) của họa sỹ nổi tiếng thế giới người Hà Lan Rembrandt van Rijn vừa được công bố trên tạp chí Khoa học Vật liệu và Chế tạo số ra mới đây.
Các tác phẩm chọn lọc của thế hệ các nghệ sỹ trẻ Đức sẽ được quy tụ và giới thiệu đến công chúng thủ đô Hà Nội trong không gian triển lãm “Hội họa mới từ Đức,” khai mạc vào 17 giờ ngày 14/05 và trưng bày tới hết ngày 31/05, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, 66 Nguyễn Thái Học.
LTS: Họa sĩ Lê Bá Đảng sinh ngày 27/6/1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông đã ra đi vào ngày 7/3 tại Thủ đô Paris nước Pháp, để lại dự án dang dở đáng tiếc về “một bức tranh rất lớn nằm ngửa trên mặt đất”, ước mong góp phần cho Huế trở nên một Kinh đô Mỹ thuật.
Sông Hương giới thiệu “lời chia buồn sâu sắc” đọc trong Lễ tưởng niệm họa sĩ Lê Bá Đảng của tỉnh Thừa thiên Huế vào chiều 9/3 tại Trung tâm Nghệ thuật mang tên ông.
Đối với họa sĩ, để đi đến trừu tượng hay trạng thái “không gì cả”, anh ta đã phải cần đến rất nhiều thứ.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Van Gogh của David Haziot, Phan Hồng Hạnh chuyển ngữ, Nxb. Đà Nẵng, 2014)
...Nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa ảo giác (illusionist) đều xem nhẹ phương tiện, chúng dùng nghệ thuật để che giấu nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện đại lại dùng nghệ thuật để thu hút sự chú ý vào nghệ thuật.
“Từ mô phỏng đến phá hủy tự nhiên”: đây hoàn toàn có thể là nhan đề của một lịch sử nghệ thuật phương Tây. Một trong những nghệ sĩ hiện đại quan trọng nhất, và cũng có lẽ hiền minh nhất, Picasso, có nói: nếu chúng ta không thể thoát khỏi tự nhiên, như một số nghệ sĩ tiền bối và đương thời với ông đang cố gắng một cách vô ích, thì ít nhất chúng ta có thể làm biến dạng nó, phá hủy nó. Về cơ bản, đó chính là một hình thức mới của lòng sùng kính tự nhiên...
Năm mới là thời điểm của những tiệc tùng liên miên. Hội họa từ lâu đã rất quan tâm tới chủ đề này. Hãy cùng nhìn lại những bữa tiệc linh đình, nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa.
Trong tiếng Hy Lạp cổ, từ chỉ “nghệ thuật” là techne, chính là nguồn gốc của các từ technique (kĩ thuật) và technology (công nghệ) - những thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong cả ngành khoa học và nghệ thuật. Nhìn vào hội họa thế kỷ 19, ta nhận thấy các họa sĩ thực sự là những kỹ sư ánh sáng và màu sắc tài tình.
Một ngày nọ, khi vẽ một thiếu nữ, tôi chợt nhận ra điểm duy nhất sống động ấy là ánh nhìn như bất động của nàng. Những thứ còn lại có ý nghĩa không hơn gì cái sọ người. Người ta luôn muốn tạc nên một con người sống, nhưng điều khiến pho tượng ấy có sự sống chỉ có thể là ánh nhìn của người đó.
Các nghệ sĩ nữ thường là bộ phận ngoại vi trong những mô tả về tiến trình lịch sử, không chỉ của hội họa mà còn của nhiều loại hình nghệ thuật khác. Nhưng thực sự chính từ những nghệ sĩ nữ, những ý tưởng nghệ thuật táo báo, đột phá nhất, gây ảnh hưởng lớn thường được khai sinh. Ba nghệ sĩ nữ được giới thiệu trong chùm bài viết này đã cho thấy sự trực cảm, tinh nhạy và quyết liệt ở họ đã mở ra những cách tiếp cận nghệ thuật bất ngờ và giàu sức sống cho đến tận bây giờ.
Sau nhiều thập niên tồn tại vô danh, La Bella Principessa đang trải nhiều công đoạn đánh giá phức tạp nhằm xác định liệu nó là tác phẩm mất tích của Leonardo da Vinci hay chỉ là kẻ mạo danh.
Vào những năm 1970, bức tranh sơn dầu (về sau được gọi tên là Bình văn) được tìm thấy trong ngôi nhà của một người dân ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Bức tranh được cho là do Lê Văn Miến (Lê Huy Miến), họa sĩ Tây học đầu tiên người VN, vẽ nên nhưng một số phát hiện vừa qua lại dấy lên giả thiết mới.
Tôi quen với họa sĩ trẻ Nguyễn Văn Hè từ những năm anh còn là sinh viên trường Đại học Nghệ thuật Huế. Cà phê vỉa hè ở đường Phạm Hồng Thái là nơi chúng tôi thường gặp gỡ chuyện trò vào những chiều cuối tuần. Hè có một đời sống nội tâm hết sức mạnh mẽ nhưng ứng xử vô cùng nhẹ nhàng và kín đáo.