Tranh của Đặng Mậu Tựu
Chuyện xưa kể rằng có một thời mèo được một ông chủ nuôi yêu quý dám đặt tên cho mèo là Trời! Nhưng một người bạn của ông chủ đã bắt bẻ cho rằng mây che được trời. Thế là ông chủ đổi tên mèo thành Mây. Nhưng người bạn lại nói gió có thể thổi tan mây. Ông chủ lại đổi tên mèo thành Gió. Gió lại bị bức tường cản. Ông chủ lại đổi tên mèo thành Tường! Nhưng chuột lại đục khoét được tường. Ông chủ hồ đồ lại đổi tên mèo thành Chuột! Và mèo bắt được chuột. Thế là cuối cùng ông chủ nuôi lại đành phải gọi chú mèo cưng của mình là Mèo như cũ! Câu chuyện mèo lại hoàn mèo vừa kể trên là nỗi “đau” của dòng họ nhà mèo đã lưu truyền qua nhiều thế kỷ. Cứ tưởng là sẽ có danh xưng mới để có thể “đổi đời” nhưng không ngờ do ông chủ của mèo quá kém thông minh nên đã bị người khác dạy cho một bài học về tội dám “chơi trội”. Nhân dịp năm hết Tết đến, Thần Mèo lại về chầu trời để thay Thần Hổ nhận nhiệm vụ của một năm mới. Nhớ câu chuyện đau lòng cũ, Thần Mèo liền quì mọp khóc lóc trước Ngọc Hoàng xin được đổi tên tất cả loài mèo thành tên mới là Tiểu Hổ cho có chút “danh vọng”. Mặc dù Thần Hổ cực lực phản đối nhưng Ngọc Hoàng cũng xiêu lòng trước những lời năn nỉ của Thần Mèo nên cuối cùng đã chuẩn tâu. Thế là từ đó các chú mèo được dịp vênh váo với đời với danh xưng mới là Tiểu Hổ của mình. Nhưng thật không may thời thế đã thay đổi, các “dân chơi” muốn được chơi sang nên đua đòi thích ăn thịt chúa sơn lâm cho oai. Thế là các chú hổ bị săn lùng... Nhưng hổ không phải là thứ dễ bắt và dễ giết. Thứ nhất là do hổ dù sao cũng là hổ thật, không dễ bị người ta bắt nạt. Thứ hai hổ là thú quí hiếm, quán nhậu nào mà dám bày bán thịt hổ công khai có mà sập tiệm. Cái khó ló cái khôn, các chủ quán nhậu lý luận: “Các thực khách không ăn thịt hổ được thì ăn tạm thịt tiểu hổ vậy. Hổ nào cũng là hổ cả!”. Thật tội nghiệp cho các chú mèo bỗng dưng được người ta ưu tiên đưa lên bàn nhậu! Thần Mèo vô cùng ân hận vì đàn con cháu của mình bỗng dưng bị gặp đại họa, sống thì bị truy lùng, chết thì không toàn thây vì bị xào nấu làm món nhậu. Thấy vậy, Thần Hổ mới cười nói: Có nhiều người thật sự thành công nên nổi danh. Nhưng cũng không hiếm những kẻ bị gặp hiểm họa chỉ vì cái bệnh háo danh của mình. Thương thay!
2. Mèo có bắt chuột? Ngày xưa có một vị quan được giao nhiệm vụ trông coi kho lương thực cho nhà vua. Quan coi kho lương rất mẫn cán và thanh liêm. Hơn mười năm nhận nhiệm vụ ông không hề nhũng lạm dù chỉ là một hạt thóc lép trong kho. Nhưng không may đến một năm nọ, không hiểu sao lũ chuột lại sinh sản bùng phát rất nhiều. Kết quả là dù vị quan đã rất cố gắng gìn giữ, kho lương thực của nhà vua cứ bị hao hụt mỗi ngày. Nghe lời thuộc hạ vị quan nuôi hơn hai mươi con mèo đem thả vào kho. Lúc đầu kết quả khá khả quan. Lượng lương thực thất thoát mỗi ngày đã giảm hơn một nửa. Ông quyết định nuôi thêm hai mươi con mèo nữa. Nhưng cũng thật bất ngờ, không hiểu sao lượng lương thực hao hụt mỗi ngày lần này không hề giảm sút mà lại có chiều hướng muốn tăng lên! Vị quan vô cùng lo lắng vì sắp đến kỳ hạn quan khâm sai đại thần đến kiểm tra kho lương. Tình trạng mất mát lương thực kiểu này nếu cứ tiếp diễn chắc chắn ông không giữ được cái đầu trên cổ. Vị quan liền treo bảng trước cổng cần mua mèo quí gấp để trừng trị lũ chuột trong kho. Vừa treo bảng buổi sáng thì buổi trưa đã có một lão đạo sĩ đến gỡ bảng và xin vào yết kiến. Viên quan mừng lắm liền mời vào. Lão đạo sĩ chào vị quan xong liền hỏi: - Thượng quan cần mua mèo quí để làm gì? - Ta cần mua mèo quí để bắt chuột. - Thượng quan lầm rồi. Bắt chuột hay không không phải là do mèo quí hay không quí. Ông bà ta đã có câu “mèo nhỏ bắt chuột con” là muốn nói đến ý đó. Loài mèo từ thuở xa xưa con nào cũng biết bắt chuột. Nhưng từ khi ở chung với loài người. Nhiều con mèo đã nhiễm tật xấu từ chủ nuôi như ăn vụng, hoặc tệ hơn là móc nối với loài chuột để hưởng lợi cho mình! - Có loại mèo biết móc nối với chuột ư? Ta chưa từng nghe! - Thượng quan có đọc nhiều sách không? - Từ nhỏ tứ thư ngũ kinh ta đều thuộc làu cả. - Thượng quan có thường đọc sử, đọc thơ không? Có xem tranh nhiều không? - Đạo sĩ khinh thường ta quá. Ta đã đọc trọn bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, thơ của thi tiên Lý Bạch bài nào ta cũng thuộc, tranh của Tô Đông Pha hầu hết ta cũng đã từng xem qua… - Thượng quan tỏ ra rất am hiểu văn hóa và học thuật của… nước ngoài! Lão chỉ xin thượng quan đến làng tranh Đông Hồ của nước ta để tìm mua bức tranh Đám cưới chuột về xem. Lúc ấy thượng quan sẽ hiểu ngài cần phải làm gì... Nói xong lão đạo sĩ liền cười ngất và biến mất. Viên quan coi kho bỗng giật mình, toàn thân mồ hôi ướt đẫm. Ông liền vội sai thuộc hạ đến làng tranh Đông Hồ gấp. Khi bức tranh Đám cưới chuột được trình lên, nhìn lũ chuột dâng quà cho mèo trong tranh viên quan hoàn toàn tỉnh ngộ. Cuối cùng qua điều tra viên quan coi kho cũng đã điều tra và phát hiện được có hai trong hai mươi con mèo nuôi tăng cường lần sau, đã dung dưỡng cho họ hàng nhà chuột và giúp cho lũ chuột có điều kiện ăn xén ăn bớt lương thực trong kho. Trị tội hai con mèo này xong nạn chuột trong kho từ đó xem như mất hẳn. Sau này viên quan đã rút ra một kinh nghiệm quí báu để truyền lại cho các quan coi kho thế hệ sau: Không cần có mèo quí mới bắt được chuột và không phải con mèo nào cũng có sở thích bắt chuột! T.T.N.V (264/2-11) |
Trong Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế giới cho hay, con rắn có rất nhiều ý nghĩa mà mỗi dân tộc, tôn giáo đều có cách giải thích khác nhau.
ĐỖ LAI THÚY
Tác phẩm văn chương, do tính biểu tượng, cho phép nhiều cách hiểu. Bởi thế, trong đánh giá, cảm thụ tác phẩm, bất đồng ý kiến với nhau là chuyện thường, nếu không nói là chuyện mừng.
KHUÊ VĂN
Trên "Sông Hương” - số 1 - Nhâm Thân 92 "Đọc xuôi một bài ca dao nói ngược" của ông Đỗ Lai Thúy. Đó là một bài báo thú vị. Tuy nhiên, bài báo vẫn còn nhiều điều cần được tiếp tục trao đổi.
LÊ VĂN HÀ - TRẦN THỊ HỢI
Thừa Thiên Huế là mảnh đất đã gắn liền với cuộc sống của Bác Hồ và gia đình trong gần mười năm thời niên thiếu. Khoảng thời gian đó và hình ảnh thân thương của Người vẫn luôn in đậm trong tâm thức người dân xứ Huế.
LÊ TIẾN DŨNG
Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích trước hết phải kể đến là thời gian kể, hay là thời gian trần thuật.
ĐỖ LAI THÚY
Bước sang tháng sáu giá chân
Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi
NGUYỄN MẠNH TIẾN
Sự khởi sinh chủ nghĩa dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tồn tại một diễn ngôn chủ nghĩa dân tộc văn hóa gắn căn rễ với folklore, mà các bài ca bình dân là chất liệu chủ đạo.
TRIỀU NGUYÊN
TRIỀU NGUYÊN
1. Khái quát
Phân định giữa P và Q, được hiểu là xem xét phạm vi, lĩnh vực biểu hiện của mỗi bên, và quan hệ giữa chúng. Như hai thực thể này bao hàm hay tách biệt nhau. Nếu tách biệt, thì tại sao lại có sự lẫn lộn.
NGUYỄN PHÚ PHONG
Nhân đọc cuốn Văn học dân gian Bình Trị Thiên - CA DAO DÂN CA, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1988, tôi có mấy nhận xét sau đây gọi là góp ý.
VƯƠNG THỪA ÂN
Trong mười con giáp thì chỉ có hai cặp "họ hàng" được xếp liền với nhau là Dần - Mão và Thìn - Tỵ. Nhưng trong hai cặp đó thì lại chỉ có cặp Thìn - Tỵ là được ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày nhắc đến luôn: Rồng rắn.
HỒ QUỐC HÙNG
Trong kho tàng truyện cổ TÀ ÔI sưu tầm được, có một nhóm truyền thuyết di dân của người PAKOH đáng lưu ý. Không rõ vì lý do nào đó, trong quá trình biên soạn, chưa được chú ý đúng mức(1).
TRIỀU NGUYÊN
NGUYỄN DƯ
Chày cối Việt Nam có mặt liên tục suốt từ thời các vua Hùng cho đến tận ngày nay. Sinh sống ở thôn quê hay tỉnh thành, hầu như nhà nào cũng đã có lúc có chày cối. Giã gạo, xay bột, giã giò, giã cua. Làm bánh, nấu chè, bếp núc… Không có chày cối thì không xong.
TRẦN ĐẠI
Đối với cư dân Việt cổ thì hầu như chưa có từ "rồng", với khái niệm là con vật linh thiêng, cao quý. Người Việt cổ có thể chỉ có khái niệm về thuồng luồng, chỉ chung những loài rắn, hay tương cận với rắn, sống ở dưới nước.
NGUYỄN DƯ
Ngựa không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày. Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào…
PHAN VĂN CHO
“Đi chợ tính tiền” là một bài ca dao lục bát. Bài đã được in làm bài Học thuộc lòng cho học sinh lớp “sơ đẳng” trong sách Quốc văn giáo khoa thư năm 1948, trang 114. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ ràng việc chi tiêu với chồng.
NGUYỄN DƯ
Mấy tuần nay ngày nào cũng nghe người lớn bàn đại sự. Cứu nền kinh tế. Tạo công ăn việc làm. Nhiều giải pháp được đưa ra. Cái nào cũng hay, cũng được kèm theo… nếu, miễn là… Nghe mãi đâm ra bực mình, khó chịu. May quá! Được Ngô Quý Sơn kéo đi xem trẻ con chơi đùa(1).