Họa sỹ Hoàng Như Thủy An - người vẽ giấc mơ núi đồi

16:42 11/07/2025
Hoàng Như Thủy An là nghệ danh của anh Hoàng Như Bứa, quê anh Bứa ở làng Thủy An, huyện Phú Lộc. Ngôi làng nằm dưới chân núi Bạch Mã thơ mộng mà hùng vĩ của thành phố Huế.

Anh Bứa vào lập nghiệp ở phố núi Đà Lạt bằng nghề dạy học, vốn là người đam mê văn chương, lại sống ở Đà Lạt từ thời còn hoa mộng, nên cái chất nghệ sỹ trong Hoàng Như Bứa lại càng thăng hoa. Cứ thế, ngày qua ngày, thơ và tranh của anh lần lượt xuất hiện cùng bút danh Hoàng Như Thủy An.

Có thể xem Đà Lạt là thảo nguyên của thi ca, hội họa và những tâm hồn phiêu lãng

Đà Lạt của thời Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly, của đôi uyên ương Lê Uyên Phương, của thi sĩ Nguyễn Đức Sơn, Phạm Công Thiện, của những vị tu sĩ Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ,... và của rất nhiều bậc tài hoa khác. Đó là một Đà Lạt mù sương lớp lớp dày đặc để Hoàng Như Thủy An vén những tấm màn cảm xúc diễn trình trên thứ vật chất hư huyễn. Khi túy lúy men thi sĩ Thủy An làm thơ, khi tĩnh tại anh vẽ tranh… cứ thế tranh và thơ trong tâm hồn anh thay phiên nhau chào đời tại phố núi.

Tĩnh vật

Tĩnh vật được Hoàng Như Thủy An vẽ mang hơi hướng siêu thực (những bức: Bầu rượu, Ly 1, Ly 2, Quạt hình chim,...), tôi cảm nhận anh vẽ tĩnh vật trong trạng thái thăng hoa do men đời, vì thế tĩnh vật đã thoát khỏi thực tại của chính nó để hóa thân vào cảm xúc của họa sỹ trong tận cùng cô đơn.

Bút pháp ngây ngô là điểm nổi bật trong hội họa Hoàng Như Thủy An. Anh từng tâm sự với đại ý: “Khi vẽ tôi như trẻ nhỏ”. Vì vậy trong tác phẩm của anh như ẩn hiện bóng dáng thiên thần. Một cõi thiêng liêng mà không phải nghệ sỹ nào cũng có thể thấu cảm.

Đà Lạt thơ, Đà Lạt mộng, Đà Lạt xứ thần tiên,... không phải chỉ do khí hậu ưu đãi, mà nơi đó còn có cả những đường cong của núi đồi, tiếng thì thầm của cỏ hoa, những tầng thực vật đa dạng, tiếng reo của suối mơ,... tất cả những thứ ấy đã tạo ra tầng lớp cư dân hiền hậu, sống hòa vào thiên nhiên. Với các nghệ sĩ, Đà Lạt như một trường năng lượng kích hoạt hệ thần kinh giao cảm để việc sáng tạo luôn hưng phấn. Hệ sinh thái Đà Lạt đã tạo ra nhiều thế hệ nghệ sỹ thực thụ. Họ sống trọn vẹn, cảm, sáng tác mà không màng đến vật chất cũng như danh huyễn.

Vẽ chân dung

Loạt chân dung của họa sỹ Hoàng Như Thủy An mà đặc biệt là chân dung thiếu nữ như một trung tâm điểm của bức tranh, sự tinh khiết, trong trẻo như không khí đã khiến người xem tan vào trong đó. Những bức chân dung tự họa của anh lột tả sự trần truồng, cởi bỏ những chiếc mặt nạ, hướng đến niềm khao khát tự do.

Nhớ một đêm vào thập niên 90, tôi lạc vào xứ sở mù sương núi đồi, thở không khí lãng đãng trong suốt, nhìn cảnh vật, con người ở đây bất chợt tôi nghe thiên thai văng vẳng chốn đào nguyên, với ánh trăng xanh tan thành suối trần gian… Khuya hôm đó, tôi ôm cả ngọn đồi mà say khướt trong một kiếp mơ hóa bướm...

Giấc mơ về một thế giới của chân thiện mỹ

Đà Lạt xưa vốn là một cõi mộng đối với nhiều người, đặc biệt là người Việt. Được sống trong cõi mộng đó, dù muốn hay không con người đó ít nhiều chịu sự tác động của xứ sở thần tiên đó, nơi mà mỗi bước chân như đằng vân bay bổng, nơi mà mỗi ý nghĩ trong như sương khuya và nơi mà nhân ảnh khi ẩn khi hiện giữa mịt mù khói sương. Nơi đó, có những bức tranh của tạo hóa vẽ nên những mảng đồi xanh non, nơi đó có những vườn hoa ngát hương dặt dìu, còn có cả những thung lũng sâu tận lòng người và những con suối như bờ tóc ai ám dụ một mùa lãng du... vậy mà vẫn chưa đủ cho một thi sĩ, một họa sỹ sống trong khu vườn ký ức đó, hay có thể vì anh quá tiếc nuối và đau cho một Đà Lạt xưa nên muốn gửi gắm cõi lòng vào tranh. Đó là “Những giọt nước của trăng” như một khao khát về cái đẹp, hay cơn buồn phiền khi thấy “Những mái nhà xa lạ” đã biến dạng ánh nhìn về một Đà Lạt cổ kính hòa vào đại ngàn thẳm xanh.

Loạt tranh gam màu blue như niềm hy vọng trao gửi tương lai, với “Bình hoa và đàn cổ” tác giả như muốn nói đến cái đẹp luôn chứa đựng nếp văn hóa và ngược lại văn hóa chính là nét đẹp, nét thiện đi vào cuộc sống. “Bình hoa và chim” gợi nhắc đến biểu tượng của tự do khi cánh chim mang vác sự tuyệt mỹ tung bay mọi miền.

Cậu bé và ngựa 1 - Tranh Hoàng Như Thủy An
Cậu bé và ngựa 2
Con trâu
Người đàn ông và con chó
Một mảng đồi


Hệ sinh thái thiên nhiên gần gũi giữa người, cỏ cây, loài vật

Hoàng Như Thủy An từng là một thầy giáo trung học, anh làm cái việc trọng đại là trồng người, nên anh có đôi mắt quan sát rất nhân văn qua nhiều thế hệ học sinh. Từ quan sát học trò, đến cảnh vật và sâu hơn nữa là văn hóa bên trong mỗi con người, mỗi vùng đất. Từ đó, anh chuyển mỹ quan mình vào tác phẩm. Bức “Cậu bé và ngựa 1” tông màu lục, gợi người xem liên tưởng đến nụ hôn của danh họa Klimt. Ở bức tranh này, người và ngựa như có sự tương tác đặc biệt của tâm từ. Tiếp theo là bức “Cậu bé và ngựa 2” gam màu nâu, cả cậu bé và chú ngựa như đang ôm ấp trong một tấm chăn thiên địa. Tác phẩm “Đồi mặt ngựa” gợi nhắc hoài niệm về một thuở chưa xa khi những chiếc xe thổ mộ vó gõ lốc cốc, chuông cổ ngựa leng keng trên những con dốc phố núi. Với bức tranh “Con trâu” đứng cô độc trong cõi mộng mênh mang dưới ánh trăng buồn, tác giả như nhắn gửi đến người xem về một biểu tượng văn hóa Việt bị lãng quên. Hình ảnh con trâu thân thiện, gần gũi trong văn hóa lúa nước đã mất dần trong tâm thức người Việt. Hơn nữa, hình ảnh con trâu còn khiến người xem liên tưởng đến “Thập mục ngưu đồ” trong câu chuyện thiền. Cũng có thể, hình ảnh con trâu tông màu blue cô độc nhưng hòa vào giữa đêm trăng xanh mênh mông chính là trạng thức quên trâu quên người (tương vong) theo cách nghĩ và trình bày của tác giả trong bức “Con trâu”. Trong “Người đàn ông và con chó”, “Cưu mang”, “Con trâu”, “Những giọt nước của trăng” như ẩn chứa thông điệp về một tình yêu thiên nhiên, yêu loài vật mà cao hơn tất cả là yêu quý cuộc sống này, như một ngã ái tự nhiên của muôn loài, hay như đức hiếu sinh mà trong các cổ thư đã nhắc đến. Điều này có thể xem là cội nguồn của tạo vật để duy trì cuộc sống, cân bằng hệ sinh thái của muôn loài mà trong kinh Hoa Nghiêm đã nói đến từ rất xưa. Nhưng ngày nay, chúng ta mới ý thức về việc bảo vệ trái đất qua việc bảo vệ môi trường, bảo vệ hệ sinh thái của muôn loài.

Được biết sau cơn tai biến, họa sỹ Hoàng Như Thủy An tuy di chuyển hạn chế, nhưng với niềm đam mê sáng tạo và sự khao khát cuộc sống, anh đã cầm cọ bằng tay trái để tiếp tục vẽ tranh, làm thơ và khóc như trẻ nhỏ mỗi khi xúc động trước cuộc sống. Anh đã sống và chiến đấu cùng bệnh tật để cho ra đời nhiều tác phẩm mới. Tôi hỏi anh có biết “độc thủ đại hiệp không?”, anh cười ngây ngô như trẻ thơ.

Hội họa của Hoàng Như Thủy An hướng đến trừu tượng và siêu thực (Huyền thoại đá, Thiên nhiên mặt người, Đồi mặt ngựa,...). Màu sắc gợi lên hoài niệm buồn nhưng mang phong vị lãng mạn... Đường nét trong tranh của họa sỹ Hoàng Như Thủy An mềm như đường cong của núi đồi Đà Lạt, đôi khi đọng lại những hạt sương như nước mắt của chàng thi sĩ chực rơi xuống trần gian. Thấp thoáng trong không gian nhỏ bé của sắc màu trong tác phẩm của anh gợi lên giấc mơ của cỏ… Một giấc mơ bình dị đi vào vĩnh cửu. 

L.H.L
(TCSH57SDB/06-2025)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • Con đường nghệ thuật Bắc Miền Trung rộng mở với những thăng hoa, vừa tĩnh lặng, vừa nồng ấm và bàng bạc không gian sống động.

  • BẠCH DIỆP

    "Có lẽ đau khổ lại tốt cho con người. Nhà nghệ sĩ có thể làm gì nếu anh ta hạnh phúc? Anh ta liệu có muốn làm bất cứ điều gì không? Nghệ thuật, rốt cuộc chính là chống lại sự khắc nghiệt của cuộc đời".

  • ĐINH CƯỜNG

    Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh

     

  • PHAN THANH BÌNH

    Trong lịch sử mỹ thuật thế giới, từ Âu châu đến Á châu đã ghi nhận nhiều hoàng đế từng cầm bút vẽ, nặn tượng và không ít bảo tàng mỹ thuật ở các quốc gia có lưu giữ những tác phẩm mỹ thuật mà tác giả là những vị vua danh tiếng.

  • KHẢ HÂN

    Là một trong những họa sĩ chủ soái của trường phái Ấn tượng nổi tiếng với phong cách làm việc ngoài trời một cách nhất quán, Monet đã để lại rất nhiều bức vẽ đầy ấn tượng về băng, tuyết và sương giá.

  • LINH PHƯƠNG

    Một lần nữa có thể thấy rằng, mỹ thuật Huế trong dòng chảy của mình, không ồn ào mà lại âm thầm trong việc theo đuổi những tiếng gọi nghệ thuật thuộc nhiều kiểu dạng ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau để có được hiệu quả thẩm mỹ tốt nhất.

  • PHƯỢNG LÂM

    Họa sĩ Léopold Franckowiak, đến nay ông đã có bảy năm sống ở Việt Nam. Có thể nói, Việt Nam là nơi gợi cảm hứng sáng tác mạnh mẽ nhất với ông trong thời điểm này.

  • TRẦN DUY MINH

    Trong hội họa, mùa thu là mùa quyến rũ với các họa sĩ, bởi mùa thu là mùa của thi tính, của cái đẹp và cũng là mùa của nỗi buồn. Mùa thu là mùa của sự úa tàn, của những phôi pha, của những gì kết thúc nhưng đó cũng là thời điểm để khởi đầu cho một hành trình mới của sự vật.

  • LÝ HỮU NGUYÊN

    Nguyễn Trọng Khôi là họa sĩ song hành cả hiện thực và trừu tượng.

  • VŨ LINH

    Từ khởi thủy của nghệ thuật tạo hình, động vật đã là một đề tài được lựa chọn. Những hình vẽ sơ khai nhất được tìm thấy trong các hang động, những hình thù khắc trên đá, trên xương động vật, trên các dụng cụ bằng đồng...

  • TRẦN DIỄM THY

    Trong nghệ thuật tạo hình trên thế giới cũng như ở Việt Nam, hình tượng trẻ con luôn được xem như là một nguồn mạch của sáng tạo nghệ thuật.

  • LÊ TRIỀU HẢI

    Nếu như nghệ thuật hiện đại có những cách thức đi ngược chiều với quan niệm nghệ thuật là sự mô phỏng của Plato và Aristotle, thì ngày nay, trào lưu nghệ thuật cực thực lại hướng tới mô phỏng ngoại giới một cách tinh vi, nếu không muốn nói là đẩy tới cực đoan nhất có thể trong việc mô phỏng vật thể.

  • NGUYỄN THỊ HÒA

    Huế những năm đầu thế kỷ XX, Nhà nước phong kiến triều Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách văn hóa hướng tới nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như văn chương nghệ thuật, giáo dục, giao lưu, tiếp xúc văn hóa, bảo tồn di sản… nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật của cộng đồng, với sự xuất hiện trào lưu học thuật tân tiến của châu Âu, mỹ thuật được giao lưu biểu hiện qua các hoạt động và sáng tác nghệ thuật.

  • ĐẶNG TRIỆU VĂN

    Như tên gọi của nó, trào lưu tối giản trong nghệ thuật hướng tới tiết chế mọi yếu tố cấu nên tác phẩm nghệ thuật.

  • NGUYỄN HOÀNG VY

    Từ khi Phân tâm học của Freud ra đời, người ta mới có thể lý giải được phần nào nguyên do xui khiến người nghệ sĩ lao vào sáng tạo nghệ thuật, có một sức mạnh to lớn từ vô thức khiến người nghệ sĩ mộng mơ, đó là sức mạnh bất khả từ chối.

  • VŨ LINH

    Với hội họa Việt Nam, sơn mài là chất liệu không xa lạ. Những tên tuổi lớn từng thành công trên chất liệu sơn mài phải kể đến như: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đỗ Cung, Phan Kế An, Nguyễn Tư Nghiêm...

  • TRÚC LÂM

    Trong văn hóa nhân loại, lợn như là một biểu tượng phổ quát. Lợn được xem là tổ phụ sáng lập một trong bốn đẳng cấp trong xã hội Meslanesie. Nữ thần trời và mẹ vĩnh cửu của các tinh tú ở Ai Cập cổ đại lại thường được tạo hình trên các bùa đeo với những họa tiết của lợn nái đang cho đàn con bú.

  • VŨ PHƯƠNG

    Trong dòng nghệ thuật biểu ý, dựa trên ngôn ngữ biểu hiện ở Huế, thì Trương Thế Linh nổi lên như một hiện tượng tiêu biểu.

  • KHẢ HÂN

    Francesco Clemente sinh năm 1952, ở Naples, Italy. Ông xuất hiện vào thời điểm khi mà Thế chiến II vẫn còn là một ký ức dai dẳng khắc sâu thành những vết nứt trong tâm thức sáng tạo của cộng đồng nghệ sĩ ở dải đất ven vùng biển Địa Trung Hải này.