Gió, ký ức và người đàn ông năm mươi

08:34 08/11/2019

ĐỖ TẤN ĐẠT

(Nhân đọc tập thơ “Nhật ký gió cuốn” - Nxb. Văn học 2018 của tác giả Phạm Tấn Dũng)

Ảnh: netquang

Gồm hơn 40 bài thơ tự do trong tập thơ dày hơn 120 trang. Nhật ký gió cuốn của Phạm Tấn Dũng đã thổi một luồng gió Thu Bồn vào thơ với nhiều hơi ấm quê hương và ký ức sống.

Tác giả sinh ra ở Điện Bàn, Quảng Nam đã trình làng cuốn “Nhật ký quê hương” qua giọng thơ có phần sâu lắng ăm ắp nỗi niềm.

Thơ anh thể hiện rõ nguồn cảm hứng nội tâm, ở đó bắt gặp được người đàn ông quá nửa đời người bắt đầu thấy sự trở về qua những giấc ngủ bị cứa sâu:

Bên kia bức tường nhà có tiếng thủy tinh vỡ/ tôi bật dậy/ nỗi nhớ không tròn/ có thể là vết cứa vào hư không/… (Vết cứa).

Để rồi “những đứa con Thu Bồn” trong anh thức dậy nhen nhóm lửa ký ức:

Nhánh hoa mua như cứa vào chiều/ những đứa con Thu Bồn vác núi lên vai/ cõng gió cõng nắng cõng những thân phận lục bình trôi dạt (Thu Bồn).

Ký ức về quê hương đó là một ký ức đầy trắc trở, gió sương của mưu sinh thường nhật cho đến giấc ngủ mớ ban đêm:

Những đứa con Thu Bồn/ mệt nhoài bốn phương gió bão/ rưng rức khóc thầm núi cháy sông khô/

Thương kiếng nhớ quê ngày đi tháng ở/ chiều về nhai giấc chiêm bao/ rồi mơ hoang mớ hoảng/ lấy nạng chống trời đêm/
(Thu Bồn).

Phạm Tấn Dũng không cầu kỳ quá về ngôn ngữ, thơ anh viết như kiểu thổi bong bóng mà không cần lấy hơi. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ cũng sẽ dễ bị cuốn theo tiếng lòng của tác giả. Có những bài mà theo tôi, anh đã thành công khi mang về cho bạn đọc những chiếc vé tàu ký ức nhiều màu sắc và dư âm của vùng đất Điện Bàn, Quảng Nam:

đã ngùi ngùi đầu làng Thi Lai Hà Mật/ tiếng guốc khua đều sạp chợ Phú Bông/ tiếng chim gù bồi hồi giữa trưa Đông Bàn/ giữa chiều Bàn Lãnh/ tiếng còi tàu chiều tà ga Xuân Đài gạt thầm nước mắt tiễn đưa/ tiếng dệt lụa ươm tơ làng Bảo An trăm năm còn vọng.../ (Quê Hương).

Kể cả khi bạn không là người Quảng, kể cả khi bạn không phải là người Quảng tha hương, tôi tin rằng bạn sẽ chùng lòng xuống rất lâu khi nghe những câu thơ này:

Ôi quê hương quê hương quê hương/ những lần khóc/ có người tha hương ngay trên quê mình/ tôi này nói với tôi/ quê mình Gò Nổi/... (Quê hương).

Không dễ để đọc được hết tập thơ một lần, đặc biệt là thể loại thơ tự do càng cần sự chiêm nghiệm và thời gian. Bên cạnh những bài thơ suy tư về quê hương cố xứ, Phạm Tấn Dũng cũng chen vào những bài anh viết cho anh về những giấc mơ cuộc đời, giấc mơ số phận. Và có đôi lúc thấy Phạm Tấn Dũng trở về với chiếc kèn lá chuối trong đứa trẻ năm mươi:

- nhiều khi nhiều khi/ đi/ về/ thổi chiếc kèn lá chuối/ thằng bé năm mươi năm nhặt tiếng chim rơi/ (Tiếng chim rơi).

- giấc mơ đàn ông/ ở quán trọ đời tạm/ trệu trạo nhai nắng chiều/ nắng rồi cũng phai/ đau rồi cũng nhạt/.

cơn mơ đàn ông/ như bức tranh phản sáng của ngày không sắc/ tóm tém đóa trẻ thơ/ giẫm lên chân trần/ lội lên vũng tối vỡ đôi bóng mình.
(Những mảnh vo tròn).

Phạm Tấn Dũng cũng có một thời theo nghề vẽ nhưng nghe anh kể là không thành công. Bắt gặp đâu đó những nét vẽ tình yêu lãng mạn đẹp buồn của anh trong bài thơ Bức Tranh:

đêm qua mưa/ sao riêng mình em ướt/ em giấu nỗi buồn đi đâu/ những hạt mưa góa bụa/ mặc tháng năm già nua chạy dọc trên đầu/
Đêm qua mưa/ đêm dài hơn dấu chấm câu/ tôi không biết và em không biết/ em giấu nỗi buồn trong tôi/ câu thơ vừa ngủ trong tranh/

Nhật ký gió cuốn
là tập thơ không quá đánh đố và ẩn dụ về câu chữ. Thơ anh dễ khơi gợi sự rung cảm cho người đọc bằng chính tình yêu quê xứ, bằng chính nỗi lòng của một gã đàn ông ngoài năm mươi đầy trắc ẩn với cuộc đời. Và tôi tin lời nhà thơ người Ý, Salvatore Quasimodo: “Thơ là sự mặc khải rằng người làm thơ tin rằng cảm xúc của họ chính là tiếng lòng của độc giả”. Nhật ký gió cuốn là tập thơ giàu tính trải nghiệm của tác giả về cuộc sống. Mặc dầu quê hương cũng là chủ đề đã rất quen thuộc trong thơ ca. Nhưng hẳn sau khi đọc tập thơ này có thể tôi cũng như bạn sẽ nhận ra một dấu chấm lửng cho những ai đang luôn đau đáu một nỗi niềm nguồn cội?

Đ.T.Đ  
(SHSDB34/09-2019)
 

Thơ PHẠM TẤN DŨNG

Thu Bồn

nhánh hoa mua như cứa vào chiều
những đứa con Thu Bồn vác núi lên vai
cõng gió cõng nắng cõng thân phận lục bình trôi dạt
dọc ngang bãi bờ lau xanh rêu cỏ
xô rớt những câu thơ
nhịp nhịp vui buồn
khép
mở
cánh thời gian
những đứa con Thu Bồn
mệt nhoài bốn phương gió bão
rưng rức khóc thầm núi cháy sông khô
thương kiểng nhớ quê ngày đi tháng ở
chiều về nhai giấc chiêm bao
rồi mơ hoang mớ hoảng
lấy nạng chống trời đêm
Thu Bồn Thu Bồn
từ thượng nguồn đến sóng xô Cửa Đại
những mưa ướt dấu chân
những tiếng hát chật lên nắng gió
những nụ hôn đất nâu ngẩn ngơ vội vàng
đèo truông bóng đổ sông đục ao trong
đền xưa tháp cũ đường hút bụi mờ
vườn chanh bãi bắp giếng cũ đình làng
nhịp nhịp thời gian
thằng Thu Bồn gã Vu Gia
sóng tóc ngang chiều
choàng áo mời người đi uống rượu
rồi đứng giữa đường ngay ngắn tạm biệt em
một cánh hoa mua soi đáy nước Thu Bồn.



Hát xa quê

ễnh ương kêu chiều tạnh dông tháng sáu
sông chạm đáy rồi đồng lúa đắng đòng
hắt hiu đèn đêm vốc nắm sáng đèn đường
nhưng cơn gió quê như giọng ai cười lễnh loãng
thằng bé Thu Bồn
ôm guitar ngồi hát xa quê
tháng sáu ngày dông thương cây bắp trên đồng
cha vá chiêm bao mẹ khâu giấc mơ
dắt trâu bãi bờ nhai bói triền sông
giọng nghé ầm vang trong cơn nấc cụt
gốc rễ nỗi niềm mồn một như in
thằng bé Thu Bồn
mưa nắng dội ngăn sâu
những tháng sáu trôi chạnh nhớ xa xôi
sông khóc đêm vì chẳng ai tắm hai lần
cá không quẫy tuột câu mà giận lẫy bầy đàn
lục bình trôi về đâu hun hút
chiều bờ xa nước cạn đến mênh mông
đứa trẻ Thu Bồn
sẫm màu ký ức
lụt bão từ chân lên đỉnh tóc


tháng sáu tháng sáu
những đứa trẻ Thu Bồn
ngẩng đầu mà hát
không còn muốn nghe phải đợi nước ròng
xa quê tìm về tiếng chim réo rắt
phía những nhịp cầu bên chân núi Chúa
chùm cánh bằng lăng rủ nhau hóng gió


tháng sáu tháng sáu tháng sáu
ai tha hương mà không nhớ tiếng ễnh ương
sông níu thân đêm bật khóc dây đàn
lục bình trổ bông tím phía chiều quê
thằng bé Thu Bồn
ru gió mồ côi
ôm guitar hát.



Vết cứa

bên kia bức tường nhà có tiếng thủy tinh vỡ
tôi bật dậy
nỗi nhớ không tròn
có thể là vết cứa vào hư không
những vết cứa mông muội vào dòng chảy
những mảnh thủy tinh ngổn ngang cắc cớ


hình như những vết
hằn trong ngóc ngách lang thang hư thực
những đường dốc đồi cũ
sương mù lạnh buốt
hay những phố vắng mặt câm
những vết nhăn phận người
sâu trong ký ức giẫm tiếng mưa rơi
cuộc tình muôn màu muôn vẻ
còn giọt nước mắt khô
như suốt đời em không trở lại


những cổ chai đã gãy
khi đã đủ hâm nóng những chiếc lưỡi trên bàn
những khuôn mặt thân quen bè bạn
những lệch lệch xiêu xiêu đổ vỡ
những rong chơi bát ngát vô thường


bên kia bức tường có tiếng thủy tinh
vỡ tôi
trong không gian tối của căn phòng
tôi muốn ru tôi thêm tròn giấc
nhưng vệt sáng thủy tinh
đã cứa vào tôi.







 


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH