Giang Nam: Vầng sáng phía chân trời

14:28 24/08/2011
THANH HẢI SHO - Hôm ấy, Nha Trang đỏ nắng. Tôi cùng anh bạn nhà báo lần đến số 46 đường Yersin tìm một ông già. Đến nơi, vừa kéo chuông chủ nhà vội vàng mở cổng. Trước mắt tôi là một ông già ngoài 80, dáng người đậm, da trắng,  mang cặp kính cận bự chác mỗi bên độ nửa bàn tay… ông già ấy chính là nhà thơ Giang Nam, tác giả bài thơ “Quê hương” nổi tiếng.

Tám mươi hai xuân rồi – cái tuổi xưa nay hiếm. Thế nhưng, tôi tưởng ông trẻ hơn độ mươi lăm tuổi. Tôi đùa: “Chắc con phải đổi cách xưng hô, gọi anh và em cho văn nghệ, thấy bác còn trẻ và linh hoạt quá”. Ông cười: “Người già nhưng tâm hồn thì cứ phải trẻ, như thế cuộc sống sẽ thư thái hơn. Ngoài những giờ đánh vật với chữ nghĩa, hội họp này nọ tôi lại đi tập dưỡng sinh…”. Lối sống ấy như thêm sức mạnh cho ông, để nay khi đã ngoài 80 nhưng vẫn đủ minh mẫn để viết lên những tác phẩm không kém phần giá trị mà tạo hóa chưa cho phép ông dừng lại.

Tôi viết “Quê hương”.

Đến đây câu chuyện dường như thân mật hơn, ông đã mở hết lòng mình ra với chúng tôi, một quá khứ đầy ắp những kỷ niệm trong ông chợt ùa về, ông kể: “Tôi được giác ngộ cách mạng từ năm đôi mươi, lại có anh trai là nhà cách mạng Nguyễn Lưu Truyền, anh ấy là động lực và gương mẫu cho tôi nên trong lòng luôn tràn đầy bầu nhiệt huyết, sẵn sàng chiến đấu vì độc lập dân tộc. Bản thân là người hay chữ nên khi bước vào hoạt động cách mạng tôi đã được cán bộ giao làm nhiệm vụ tuyên huấn, đó cũng như là cái duyên gắn bó tôi với văn nghệ”.

Chính trong thời gian này, Giang Nam đã gặp gỡ và đem lòng yêu bà Nguyễn Thị Chiều – Người phụ nữ đã sát cánh bên ông trong suốt cuộc hành trình và bà cũng là người khơi nguồn cảm hứng dạt dào cho bài thơ Quê hương. Như cái chồi ra từ đất khô, tình yêu thật đẹp trong những ngày lửa đạn, họ yêu nhau và đến với nhau từ những điều đơn giản nhất, ông kể tiếp:
“Chúng tôi làm cùng ở cơ quan dân chính Phú Khánh, hồi đó tôi rất thích vợ tôi nhưng bên cạnh cô ấy còn có nhiều người theo đuổi nên chỉ còn cách mỗi lần đến đưa công văn gửi cho cô ấy một lá thư chứ không dám đến hỏi thêm gì. Viết thư cũng chỉ dám hỏi mấy câu đơn giản như; anh có ý thích em, em nghĩ thế nào?”.Ông nhớ: “Tôi bồn chồn chờ đợi suốt cả tuần lễ khi lá thư thứ hai gửi đi mà không thấy hồi âm, chờ mãi cuối cùng cũng nhận được thư trả lời của bà ấy…từ đó tình cảm giữa chúng tôi ngày một lớn lên, sau đó không lâu, năm 1955 chúng tôi đã làm đám cưới”.

Cưới xong ở với nhau vỏn vẹn hai đêm, ông lại phải nhận nhiệm vụ mới ở Bình Định. Đây cũng là cái mốc đánh dấu cho những chuỗi ngày xa nhau đằng đẵng của ông bà. Phần mình, ông miệt mài với công việc tổ chức giao, âm thầm tham gia tờ báo hợp pháp với tên gọi “Gió mới” hoạt động công khai tại nội thành Nha Trang. Khi Mỹ nguỵ tiến hành các đợt “tố cộng”, “diệt cộng” cán bộ đảng viên ở miền Nam phải tổ chức đổi vùng để tránh bị lộ. Tổ chức đã sắp xếp để ông bà chuyển vùng hoạt động về Biên Hoà.

Rồi một lần, ông kể mà như khóc: “Lần đoàn tụ này chúng tôi vô cùng xúc động nhưng vẫn phải giữ bí mật tuyệt đối cho cách mạng. Cũng tại Biên Hòa, vợ tôi sinh đứa con gái đầu lòng và cũng là duy nhất cho đến giờ, ngay sau khi vợ sinh, tôi được tổ chức rút về lại Khánh Hoà. Sau đó không lâu, vào một buổi tối giữa năm 1960, ngoài trời mưa tầm tã, tôi được cấp trên gọi lên trấn an tư tưởng, thăm hỏi động viên rồi thông báo tin chẳng lành có thể vợ và con gái tôi đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi (tại tỉnh Sông Bé cũ nay là Bình Dương). Đau đớn đến bàng hoàng, sự thương cảm xót xa cứ thế trào lên. Tất cả những kỷ niệm cũ, tình yêu nghẹn ngào, những giận hờn và buổi chia tay đầy nước mắt như sống dậy xót xa, nhức nhối, tôi đã phải bật khóc nức nở và chỉ trong một giờ đồng hồ tôi đã viết xong bài thơ “Quê hương”. Viết liền mạch, không tẩy xóa, không thay đổi gì cả…”.

Tôi sống “Quê hương”.

Những ngày tháng đau khổ đã đi qua rất lâu. Nhưng mỗi lần nhắc đến những mất mát hy sinh, khuôn mặt Giang Nam vẫn như nặng trĩu nỗi niềm. Những kỷ niệm chiến trường chôn sâu trong ký ức lại chợt ùa về, ông thổ lộ: “Với tôi, đau thương cũng là một sức mạnh. Sau khi làm xong bài “Quê hương” tôi đưa cho cấp trên đọc, ngay lập tức nhận được sự đồng cảm. Rồi, sau đó ít ngày  tôi gửi bài thơ ấy cho báo Thống Nhất ở Hà Nội. Tháng 9/1961 đang trên đường công tác ở huyện Khánh Vĩnh (Khánh Hòa), tôi bất chợt nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đọc bài thơ “Quê hương” của mình và thông báo được giải nhì báo Văn Nghệ. Trong giây phút vui mừng đó, tất cả hình ảnh người vợ thân yêu cùng đứa con nhỏ của mình lại trở về nguyên vẹn trong tôi. Thêm một lần tôi bật khóc. Có lẽ mỗi câu thơ trong bài “Quê hương” đều hàm chứa hình ảnh người vợ của tôi. Cũng từ đó, tôi lao vào làm thơ phục vụ cách mạng, làm báo tuyên truyền cổ vũ đồng chí của mình như một nhiệm vụ cao cả”.

Ngày nhận thư của nhà thơ Hoàng Trung Thông mời ra Hà Nội nhận giải, Giang Nam đau đáu trong mình một suy nghĩ: Phải chăng những tình cảm tha thiết, chân thành, xót xa đã giúp người ta có những câu thơ hay. Cũng từ đó, ông luôn nuôi cho mình một ý thức viết một cách chân thành và tha thiết nhất. Đúng vào ngày nhận giải, nhà thơ Chế Lan Viên  đã gọi Giang Nam lại và nhận xét rằng: “Cả bài thơ “Quê hương” của Giang Nam và “Núi đôi” của Vũ Cao  đều nói về sự hy sinh của người con gái, của tình yêu và nỗi cách xa. Nhưng, bài “Quê hương” của Giang Nam đau quá!. Tuy bài thơ được giải nhì nhưng sẽ có sức sống vượt thời gian”. Sau khi bài thơ “Quê hương” được công bố, rất nhiều cuộc mít tinh chớp nhoáng đã lấy bài thơ này ra đọc lên như một sự cổ vũ. “Lúc đó, tôi vô cùng sung sướng, thấy mình như được tiếp thêm sức mạnh, viết không ngưng nghỉ”- Giang Nam hồ hởi.

Cuộc sống luôn hàm chứa những bất ngờ, cứ đinh ninh vợ con đã bị địch giết chết nhưng giữa năm 1962, bà Chiều và con gái bất ngờ được thả về do địch không tìm ra căn cứ kết tội. Nỗi vui mừng chưa được bao lâu, năm 1968, vợ Giang Nam lại bị địch bắt lần thứ hai cho đến mãi năm 1973 mới được thả về nhờ sự bào chữa của một luật sư. Nhắc đến thời kỳ này, giọng ông lại nấc lên: “Suốt hai lần vào tù, ra tội, những ngày dài sống đằng đẵng trong xà lim, đứa con gái duy nhất của tôi vẫn phải bám sát lấy mẹ. Ai có tách ra nó cũng không chịu. Có những ngày bị lạnh tím tái tưởng chừng như đã ra đi. Có lúc sợ nó nhớ tôi, vợ tôi đã chùm chiếc áo cũ tôi lên người nó. “Tận khổ cam lai”, may thay giờ vợ và con tôi vẫn khỏe mạnh. Lần ra tù thứ hai cũng nhờ nhiều vào một người luật sự, họ bào chữa một cách vô tư. Sau này giải phóng tôi có đi tìm lại người đó để cảm ơn nhưng không gặp được”.

Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, theo điều động của tổ chức, Giang Nam làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Năm 1978, chấp hành ý kiến của cấp trên, ông ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn VN, 1989 (tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà) Tỉnh uỷ Khánh Hoà xin ông về làm phó chủ tịch UBND tỉnh- Phụ trách văn xã. Cứ tưởng rằng bước vào đường quan, cảm xúc thơ của ông sẽ giảm đi nhưng đúng như ông nói: “Có về nơi cuối trời vẫn đáu đáu với quê hương, với thơ ca. Được làm việc trên quê hương của mình, được phục vụ nhân dân lại được nhiều người quý trọng và nhớ đến bài thơ “Quê hương” nổi tiếng nên tôi vẫn miệt mài viết, viết cho đến hơi thở cuối cùng mới thôi”.
Chính trong thời gian làm phó chủ tịch tỉnh, có dịp tiếp cận nhiều hơn với người dân cũng như muôn mặt của cuộc sống nên ông đã cho ra đời trường ca “Sông Dinh mùa trăng khuyết”.

Hơn năm chục năm đã trôi qua, với biết bao vui buồn lẫn lộn, biết bao nhiêu tác phẩm hay ra đời từ đôi bàn tay ông. Nhưng phần đông chỉ nhớ tới ông qua bài “Quê hương”. Có lẽ với Giang Nam, thế đã là quá đủ. “Quê hương” – đứa con ra đời bằng nước mắt, gắn bó với máu thịt mình cũng sẽ theo ông suốt một đời như thế!

T.H



















Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Rất nhiều hoa, rất nhiều nụ cười đã hiện diện một cách cởi mở và đầm ấm trong buổi chiều ngày 18.7.2008 tại Trung tâm Du lịch và Dịch vụ Festival - Huế, nơi diễn ra Lễ kỷ niệm 25 năm Tạp chí Sông Hương phát hành số báo đầu tiên (1983-2008).

  • HỒ THẾ HÀĐến nay, Tạp chí Sông Hương đã tròn một phần tư thế kỷ (1983-2008) kể từ số đầu tiên được ra mắt bạn đọc. Hai mươi lăm năm đủ để vui buồn ôn lại những chặng thác ghềnh và phẳng lặng của một dòng sông từ nguồn ra biển.

  • ĐẶNG VĂN VIỆTKỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng TámSau ngày đảo chính (9-3-1945), Nhật lật đổ Pháp. Phong trào Việt Minh như một luồng gió mạnh, thổi từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân đất Việt, thúc giục mọi người sẵn sàng để chớp thời cơ, giành lại chính quyền về tay nhân dân.

  • TRẦN THÙY MAIThuở trước, mỗi đêm cuối năm, anh Hải Bằng bao giờ cũng đến thăm trụ sở Hội Văn nghệ, rồi túc tắc ngự trên chiếc xe babeta màu đỏ, ghé thăm nhà bạn bè thân hữu đó đây trước khi quay về để kịp đón giao thừa.

  • NGUYỄN QUANG HÀCuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cả nước xôn xao về vụ án Trần Dụ Châu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong một cuộc vui gần đây, nhân nhắc đến việc bình chọn các nhân vật, sự kiện nổi bật trong năm trên báo chí, có ý kiến phong cho nhà văn Hồng Nhu là người đạt nhiều cái “nhất” nhất trong làng văn ở Huế.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG - Chúng ta lại thắng rồi. Thỉnh thoảng lão lại reo lên như thế khi bất chợt gặp một người mà lão coi là bạn. Lão nói câu ấy cả khi lão đang thoi thóp trên giường bệnh, miệng méo xệch lão nói một cách khó khăn nhưng vừa nói lão vừa cười khiến cho người ta yên tâm là lão bắt đầu sống trở lại, cái chết còn lâu mới quật được lão.

  • PHẠM QUANG TRUNGAnh Cao Xuân Hạo kính mến!Trước tiên, xin thú nhận, tôi là người mê say tên tuổi anh đã từ lâu. Tuổi trẻ và sau đó là những năm tháng trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu, phê bình văn chương đã đưa tôi đến những trang dịch văn xuôi Nga – Xô viết đầy sức cuốn hút của anh, như Chuyện núi đồi và thảo nguyên, Chiến tranh và hòa bình, Truyện ngắn Gorki, Con đường đau khổ, Tội ác và trừng phạt…

  • VINH HUỲNHLTS: Có bạn đọc gửi thư đến Toà soạn chúng tôi đề nghị nếu chọn topten sự kiện nổi bật trong làng báo chí năm 2001 thì không nên bỏ qua “hội chứng” đánh vào các trường đại học, trong đó có Đại học Nghệ thuật Huế và trường Viết văn Nguyễn Du.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(Tham luận đọc trong hội thảo)Cho đến đầu thế kỷ 21 này, chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế đã là điều đáng sợ nhưng cái đáng sợ hơn là nguy cơ vong bản về mặt văn hoá. Xu thế toàn cầu hoá đang xâm nhiễm và xâm thực vào đời sống chúng ta một cách ngọt ngào mà chua cay, dịu êm mà đẫm máu.

  • TRẦN HOÀNLTS: Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 12 năm 2001 đã diễn ra cuộc tập huấn - hội thảo báo chí văn nghệ địa phương tại thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Trần Hòan, Phó Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Phó Chủ tịch UBTQ.LH các Hội V.H.N.T Việt Nam đã đọc báo cáo đề dẫn hội nghị. Sông Hương xin trích đăng một phần trong báo cáo đó (đầu đề do chúng tôi đặt).

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀM(TBT: 1983 - 1986)Bây giờ nhìn lại những số Sông Hương đầu tiên (số 1 ra mắt tháng 6-1983) không khỏi cảm thấy tờ tạp chí như một… cô gái quê, giản dị, khiêm nhường, có vẻ… tồi tội. Giấy đen. Bìa mỏng. Bát chữ typo chỗ đậm chỗ nhạt. Sông Hương làm sang cho in ảnh tác giả, khốn nỗi, ảnh loè nhoè, không rõ mặt. Giá bao cấp 7 đồng/số, vẫn bị chê đắt. Được cái lượng bản in ngay số đầu là 4.000 bản. Trông khí sắc cuốn tạp chí vẫn chưa xa cái thời tranh đấu chống Mỹ, in sách báo trong gác trọ sinh viên.

  • TÔ NHUẬN VỸ(TBT: 1986 - 1989)Có năm kỷ vật của Hải Bằng tặng tôi và gia đình, từ ngày anh còn sống cho đến nay, sau 10 năm anh mất, tôi vẫn nhìn ngắm và chăm sóc hàng ngày. Đó là bức tranh hồ sen, là hai câu thơ anh viết trên giấy đặc biệt, là tất cả các tập thơ anh in từ sau 1975, là đôi chim hạc anh tạo bằng rễ cây và con chó Jò bé xíu.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(TBT: 1991)Tôi có may mắn được làm Phó Tổng biên tập nhiều năm cho hai “đời” Tổng biên tập nổi tiếng là Nguyễn Khoa Điềm và Tô Nhuận Vỹ, nhưng đến “phiên” mình được gánh vác trọng trách thì chỉ đảm đương được một thời gian ngắn. Đã đành do tài hèn sức mọn, nhưng cũng vì đó là giai đoạn khó khăn sau “Đổi Mới”, chúng ta đang phải tìm đường, nhiều quan niệm - nhất là về văn học nghệ thuật chưa dễ được nhất trí…

  • HỒNG NHU(TBT: 1992 - 1997)Thời gian như bóng câu qua cửa. Mới đó mà đã một phần tư thế kỷ, tờ tạp chí Sông Hương có mặt cùng bạn đọc trong và ngoài nước.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.

  • MAI VĂN HOANSáng 8 - 5 - 2008, ghé quán  26 Lê Lợi (trụ sở Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế) ngồi uống cà phê với hai nhà thơ Kiều Trung Phương và Ngàn Thương, tôi vô cùng sửng sốt khi Ngàn Thương cho biết người suốt đời đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử là anh  Phạm Xuân Tuyển đã mất cách đây gần 7 tháng tại Phan Thiết.

  • I.Con người ấy từng mang tên Nguyễn Sinh Cung, và tên chữ Nguyễn Tất Thành, trước khi đến với tên Nguyễn Ái Quốc, đã trải một tuổi thơ vất vả vào những năm kết thúc thế kỉ XIX, để bước vào thế kỉ XX với một niềm khao khát lớn: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy...” (1)

  • Từ rất nhiều năm nay tôi rất muốn bày tỏ đôi điều về những bi kịch cuộc đời mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) từng chịu đựng và trăn trở, từng nén vào lòng để sống và sáng tác.

  • Chiều 17.11 vừa rồi, ở địa chỉ 26 Lê Lợi đã diễn ra cuộc tọa đàm giữa đoàn nhà văn Trung Quốc với Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật, Phó Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ đã tháp tùng đoàn nhà văn bạn từ Hà Nội tới Huế.