Giải mã chữ Hán trên di sản Huế - Kỳ 1: Tuyên ngôn độc lập của vương triều Nguyễn

09:36 22/07/2015

Trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế xuất hiện hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán. Hệ thống di sản tư liệu độc đáo này vừa được giải mã để đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới.

Bài thơ mang ý nghĩa là bản tuyên ngôn độc lập của vương triều nhà Nguyễn tại điện Thái Hòa - Ảnh: Lê Công Doanh

Ngày 8.5 vừa qua, tại TP.Huế, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã tổ chức hội thảo khoa học bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế. Tại hội thảo, TS Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, cùng nhóm cộng sự đã công bố công trình khảo sát, thống kê, dịch thuật khá đầy đủ và hệ thống về toàn bộ văn bản hiện lưu giữ trên kiến trúc cung đình Huế.
Theo TS Phan Thanh Hải, hệ thống thơ văn chữ Hán trên kiến trúc cung đình Huế vốn được tuyển chọn từ trước của các vị hoàng đế, thân vương, quan lại triều Nguyễn; được chạm khắc, khảm cẩn, tráng men hay đắp nổi trên các công trình kiến trúc cung đình tại kinh đô Huế trong giai đoạn 1802 - 1945. Hệ thống này bao gồm hàng ngàn bài thơ, bài văn, câu đối được thể hiện trực tiếp bằng nhiều loại hình chất liệu khác nhau (gỗ, xà cừ, pháp lam, sành sứ...) trên công trình kiến trúc như một cách thức trang trí đặc biệt, riêng có tại Huế.
Chữ Hán ở điện Thái Hòa
Nhà nghiên cứu Phạm Đức Thành Dũng (Phòng Nghiên cứu Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế) cho biết điện Thái Hòa là nơi đặt ngai vàng, thể hiện quyền uy của triều đại, đóng vai trò chính thức trong việc đối nội, đối ngoại cho nên quy mô, cấu trúc cũng như trang trí đều rất đặc biệt, thể hiện tôn ti, trật tự rõ ràng. Do tính chất quan trọng như vậy nên hệ thống thơ văn được trang trí trên điện Thái Hòa cũng mang ý nghĩa chính trị, thể hiện những thông điệp chính của triều đại.
Tại điện Thái Hòa hiện có 295 ô hộc có trang trí thơ văn chữ Hán, trong đó 248 ô hộc bằng gỗ, 47 ô hộc pháp lam. Hình thức trang trí của các ô hộc theo mô tuýp “nhất thi, nhất họa”, cứ mỗi bài thơ có một bức họa kèm theo. Thơ văn trên điện Thái Hòa được phân bố ở nhiều vị trí cả trong lẫn ngoài.
Thú vị bài thơ tuyên ngôn độc lập
Bài thơ quan trọng nhất đặt ở bức hoành phi ngay gian giữa, bên dưới bức hoành phi lớn ghi chữ Thái Hòa Điện, được khắc trên gỗ, sơn son thếp vàng. Bài thơ nguyên văn được phiên âm như sau:
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng Bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường, Ngu
Dịch nghĩa:
Nước Việt đã ngàn năm văn hiến
Cơ đồ vạn dặm đã thống nhất hoàn toàn
Từ thuở Hồng Bàng mở nước
Trời Nam đã một cõi sánh với Đường, Ngu
(bản dịch của Phạm Đức Thành Dũng)
Diễn nghĩa hai câu sau rõ hơn là, kể từ thời Hồng Bàng dựng nước cho đến thời nay, nước VN ta đã là một cõi riêng thái bình, thịnh trị tương đương như thời Đường (thời thịnh trị của vua Nghiêu) và Ngu (của vua Thuấn) của Trung Hoa.
Cùng với bài thơ này còn có hai bài thơ mang ý nghĩa bổ sung thêm cho niềm tự tôn dân tộc, ca ngợi triều đại mới và thể hiện lý tưởng xây dựng đất nước mãi mãi phồn vinh.
Bài bên trái nguyên văn:
Thái bình tân chế độ
Hiên khoát cựu quy mô
Văn vật thanh danh hội
Xuân phong mãn đế đô
Dịch nghĩa:
Đất nước thái bình trong chế độ mới
Mở rộng quy mô xưa
Văn vật người tài về tụ hội
Gió xuân tràn ngập cả kinh đô
Bài bên phải:
Địa địa chung linh khí
Quần tinh củng đế xu
Thánh hoàng trung kiến cực
Liễm phúc dĩ thời phu
Dịch nghĩa:
Đất lành un đúc linh khí
Tinh tú chầu về nơi vua ở
Bậc thánh đế trang nghiêm trên ngôi báu
Tích phúc để lan tỏa cho muôn dân
Trong khi nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là 3 bài thơ độc lập, thì nhà nghiên cứu Vĩnh Cao (thuộc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế) lại có một kiến giải khác. Ông đã ghép cả ba bài thơ này lại thành một bài và cho rằng đây là bài thơ biệt thể (kết hợp ba bài tứ tuyệt). Tuy mỗi người có mỗi cách kiến giải và cách đọc khác nhau, nhưng tất cả đều thừa nhận cụm thơ văn trên điện Thái Hòa mang chung một ý nghĩa đó là bản tuyên ngôn độc lập của vương triều nhà Nguyễn, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, ca ngợi chế độ, ca ngợi nền thái bình thịnh trị của đất nước.
Tác giả những bài thơ trên điện Thái Hòa, theo nhiều nhà nghiên cứu là của vua Minh Mạng, trích trong tập Ngự chế thi. Trong khi đó, ông Nguyễn Phước Hải Trung, Phó giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, lại cho rằng hầu hết các bài thơ đều không ghi tác giả, trên bờ nóc ngoại thất của điện Thái Hòa có một ô pháp lam ghi thông tin về tác giả một cách mơ hồ như sau: Ngự chế thi tam thập thủ. Thông tin trên cho thấy những bài thơ trên là do vua làm, nhưng cụ thể là vua nào thì vẫn rất khó xác định, muốn xác định tác giả cần phải đối chiếu với nhiều tư liệu Hán - Nôm về thơ của các vua triều Nguyễn đang lưu trữ nhiều nơi.
Theo thống kê, trên kiến trúc cung đình Huế hiện còn 2.967 ô thơ văn chạm khắc, sơn thếp, cẩn xà cừ trên gỗ; 146 ô thơ văn viết tráng men thành pháp lam; 78 đơn vị ô hộc, câu đối, bài văn đắp ngõa sành sứ. Đây thật sự là một bảo tàng sống động, một “thư viện” văn chương thời Nguyễn có một không hai.
 

Theo TNO

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hiện tại trong 6 lăng vua Nguyễn ở Huế đang còn tồn tại 10 con ngựa đá rất đẹp ở sân chầu dẫn vào khu mộ với nhiệm vụ canh giữ “hồn” xưa của vua.
     

  • 30 năm qua, anh lặng lẽ chăm chút ngựa như chăm chút con mình, cái nghiệp trông coi ngựa gắn người với ngựa cũng từ đó. Anh nói, cái nghề này, nếu không yêu nghề thì phải bỏ thôi, chứ công việc hoàn toàn khác hẳn, đòi hỏi phải tinh mắt, biết lắng nghe, siêng năng, cần cù…

     

  • Cổng Ngọ Môn Quan là cổng chính phía Nam của Hoàng thành Huế, đồng thời cũng là cổng chính và là bộ mặt của Đại Nội. Ý nghĩa của cổng Ngọ Môn là gì? Có phải là lối ngựa đi?

     

  • Quầy thư pháp Tràm hoa vàng của bà Trần Thị Cúc nằm trên đường Lê Lợi (TP Huế) đã trở thành địa chỉ quen thuộc của người dân và du khách yêu thư pháp. Họ đến để được nhìn ngắm nét bút tài hoa của người phụ nữ duy nhất ở mảnh đất cố đô theo nghiệp viết thư pháp.

  • Di tích Thanh Bình Từ Đường nằm sâu 50m trong kiệt 281, đường Chi Lăng (TP Huế). Sức hấp dẫn của ngôi từ đường được xếp vị trí loại 1 di tích văn hóa cấp quốc gia. 

  • Sông Hương - quà tặng tuyệt diệu của tạo hóa cho Huế thiên hạ đã biết, nhưng từ khi những con đường ven sông và các cây cầu vươn nhịp nối đôi bờ ngày một nhiều hơn thì các khách sạn và nhiều công trình kiến trúc khác, thường trọng “mặt tiền” là con đường người xe tấp nập, “vô tư” quay lưng với dòng sông từng là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca nhạc họa.

     

  • Nhân dịp mừng xuân, mừng Đảng, xin kể lại câu chuyện về một người đảng viên được dân lập miếu thờ và có một ngôi trường mang tên ông.

  • Hiện nay, nghệ thuật pháp lam- Huế còn nhiều kiệt tác chưa được khám phá. Ấn tượng về sự sáng tạo tinh xảo của người nghệ nhân đi trước là động lực để người đương thời tạo nên những tác phẩm mới...

  • Cống Địa Linh xem như dấu mốc cuối cùng của phố cổ Bao Vinh. (Thừa Thiên - Huế). Qua cống Địa Linh rẽ trái dăm trăm mét, du khách sẽ bắt gặp những tấm ván dài và phía trên là những ông Táo được đặt lên phơi khô trước lúc đưa vào lò. Ở Huế đây là nơi hiếm hoi còn "sót lại” nghề làm ông Táo với nhiều ý nghĩa trong phong tục của người Việt.

  • Người Pa Kô ở A Lưới, Thừa Thiên – Huế  và nhiều dân tộc vùng cao khác đều có nghệ nhân khèn bè nhưng điệu khèn lúc thì như nắng mới, như gió mơn man, như lau lách rì rào; khi thì da diết như tiếng lá khô chậm rãi rời cành…, thì chỉ có được trong điệu khèn Kăn A Kết. Điệu khèn nổi tiếng những năm 60, 70 của thế kỷ trước, lưu truyền trong dân gian nhưng rất ít người biết được…  

  • Đây là phiên chợ độc đáo của xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, ít nơi nào có được. Nói là chợ phiên Quảng Ngạn nhưng chợ thu hút rất đông người dân của các xã lân cận như Điền Hải, Quảng Công vượt sóng nước Tam Giang về đây tụ hội. Chợ chỉ diễn ra trong 3 ngày, từ mồng một đến mồng ba Tết Nguyên Đán, rồi tan và chờ đến dịp này năm sau mới họp lại.

  • Trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, nhưng người dân ở thôn Hòa Vang, xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế) vẫn còn cất giữ nhiều tư liệu quý về Hoàng Sa. Từ những bản sắc phong về “Cai đội Hoàng Sa” của vua Gia Long; đến chiếc đại hồng chung khắc tạc công ơn người trấn quản Hoàng Sa năm xưa… Tất cả đều được người dân xem như “báu vật lịch sử” và bảo vệ cẩn thận.

  • Tranh làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) vốn là dòng tranh dân gian nức tiếng hàng trăm năm qua. Những ngày Xuân về, làng tranh này lại rộn ràng khoe màu như chưa từng có sự đứt gãy của thời gian.

  • Chiều ngày 19/01/2014, tại Gác Trịnh ( 103/19 nguyễn Trường Tộ - TP Huế), Câu lạc bộ tiêu sáo Huế đã tổ chức buổi giao lưu văn nghệ đón chào xuân mới. Đông đảo những người yêu nhạc Trịnh đã đến tham dự chương trình.

  • Khoảng 6h sáng 18/1, khi đang trên đường cập bến, cách cửa lạch biển Thuận An khoảng một km, tàu cá do thuyền trưởng Hồ Văn Hiền (trú thôn Hải Tiến, thị trấn Thuận An) điều khiển bị mắc cạn. Do sóng to nên tàu cùng 5 thuyền viên đã bị nhấn chìm ngay tại vùng cửa biển Thuận An.

  • Đương thời, vua Bảo Đại từng nhận xét về vẻ đẹp của Nam Phương Hoàng hậu rằng: “Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người con gái miền Nam, thùy mị và quyến rũ, pha một chút Tây phương làm tôi say mê”.

  • Sau bao thăng trầm của cuộc sống, tranh làng Sình xứ Huế có lúc tưởng chừng đã bị xóa sổ... Nhưng may mắn vẫn còn một người đau đáu với nghề làm tranh - Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Ông đã gìn giữ và phục sinh nghề truyền thống có tuổi đời gần 500 năm.
     

  • Tình cờ, chúng tôi được chứng kiến trọn lễ A Riêu Piing của người Pakô ở xã Hồng Trung, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đây là lễ hội lớn nhất của người Pakô, được tổ chức 5 năm, thậm chí 10 năm một lần.

  • Trong dịp ghé thăm Huế đầu năm 2014, họa sĩ Nguyễn Đại Giang, cha đẻ trường phái upsidedownism - đảo ngược (Từ đảo nghịch cuộc đời đến đảo nghịch hội họa, Tuổi Trẻ ngày 15-2-2009), đã có buổi vẽ tranh thú vị tại gác Trịnh - căn gác nơi Trịnh Công Sơn sống thời trai trẻ ở Huế.

  • Điện Long An - Bảo tàng cổ vật cung đình Huế và những gì chứa đựng bên trong thực sự là một di sản quý báu.