Giấc mơ cây đàn và ngọn nến

09:57 04/11/2008
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)


Trong tiến trình phát triển của văn học phải kể đến thế hệ xuất hiện sau chiến tranh, nhất là từ thời kỳ đổi mới 20 năm trở lại. Họ đến với thơ bằng hành trang đầy đủ về học vấn, bối cảnh xã hội cũng rộng mở thuận lợi hơn trước.
Trần Kim Hoa một trong số đại biểu ấy.
Chị đã có ba tập thơ: Nơi em về (1990), Quá khứ chân thành (1998), Lối tầm xuân (2003). Hoạ mi năm ngoái /tác phẩm thứ tư mới nhất, được viết từ cuối năm 2003 đến cuối năm 2005, hiện rõ gương mặt Trần Kim Hoa trong lữ trình thơ cùng thế hệ:
ta thấy rõ mình hơn mỗi tảng sáng
ta thấy rõ mình hơn mỗi chiều về
như thuỷ tiên trổ thêm rễ mới
                                                (Buổi chiều những năm 2000)
Đây là cái nhìn giao cảm của thế giới nội tâm, hiểu sự mong manh của con người trong thế giới rộng lớn đang chuyển hoá, lời cất lên có nước mắt/mắt nhìn đầy nước mắt.

Thế giới đời sống vốn sắp đặt theo quy luật riêng mà Trần Kim Hoa như người khách đến muộn. Con mắt chị nửa phần ngơ ngác, nửa phần thẫn thờ nhìn nó. Ngơ ngác vì cuộc đời này tiềm ẩn bao điều mới lạ, trong trẻo như những hạt thóc vàng mười rực sáng / trổ những lá mầm bé xíu; thẫn thờ vì cuộc đời cũng nghiệt ngã, chua chát: búi tóc ngày một lỏng / cái nhìn ngày một xa, không thể không dằn vặt, u hoài: đêm đêm trở mình nghe cây thở / nghe bậc cửa chạm vào bóng tối. Bởi vậy chị muốn khám phá thế giới, để được sống như đời sống/ lược thời gian chải tóc mỗi ngày, đó là sự dấn thân, sự chấp nhận của trái tim đa cảm.
Người nghệ sĩ chân chính bao giờ cũng thấy mình mang nợ với cuộc sống, con người, nợ từng chiếc bóng đổ xuống ngày thường, nợ phía cánh rừng nơi có những chiếc móng chân không mọc lại, nơi người đàn ông của ta một sớm ra đi gương mặt còn búng sữa mãi chẳng thấy trở về. Và, khát vọng thường trực trong họ, càng đa cảm càng khát vọng, đó cũng là nhân tố hối thúc sáng tạo:
miên man dấu tay người để lại
hơi thở người như mới hôm qua
thôi đừng gục mặt xuống những phím buồn chìm nghỉm
nốt cô đơn đừng nhấn nhá nữa mà

bao nhiêu thắc thỏm dồn về đây hết
dòng sáp nức nở sắp chảy, đắm đuối chảy
một ngọn sáng duy nhất
lắc lư như muốn tắt mà không tắt nổi

Sáng tạo có cốt cách là sáng tạo được bật lên từ bản ngã sống còn của nghệ thuật, bật lên từ những tố chất đích thực. Nói quá đi cốt cách giời bắt làm thi sĩ. Đấy là cách nói sang trọng, thực ra tố chất kia đều khởi nguồn từ sự nhào luyện không mệt mỏi của cảm xúc và tư duy. Mỗi khi nhà thơ ngụp lặn vào cõi thiêng ấy, thơ xuất hiện ngoài ý muốn, câu chữ có thần phép. Mô tả cây đàn và ngọn nến theo kiểu Trần Kim Hoa ở giờ khắc tận cùng đã làm nên thi pháp của chị, tuồng như không mới mà lại rất mới. Câu chữ cứ chảy đi tự nhiên, người đọc cảm nhận bằng lối cảm nhận riêng mình, nói theo lý luận mỹ học gọi là đồng sáng tạo; nói theo thiển ý của tôi, chị đã mê hoặc dẫn dắt người đọc bước vào ngôi - nhà - hư - ảo, ẩn náu bao điều kỳ diệu:
mờ nhoà những dáng nét
uốn cong những đường thẳng
bằng chút sức lực cuối cùng
không hiểu lấy từ đâu ra

và im lặng
và bóng đêm
không cho được nữa
không nhận được nữa
                                                (Cây đàn và ngọn nến)
Bài thơ kết thúc mà ý tưởng như dòng sông trôi mãi trong một không gian thời gian bí ẩn lạ lùng.

Hạnh phúc người đọc được dừng lại nhiều lần ở mỗi câu, mỗi đoạn thơ, dừng lại những chỗ chưa nhận biết, chưa thể hiểu. Đấy là điều đáng trọng, khi nhận ra, hiểu ra càng yêu mến kính trọng hơn. Không phải lúc nào cũng vội vàng gán cho thơ hiểm hóc, tắc tị, chẳng qua vì ta chưa tìm được cái chìa khoá vạn năng để vào được ngôi - nhà - hư - ảo thi nhân.
Ngôi - nhà - hư - ảo của Trần Kim Hoa bộn bề ý tưởng, mặc dầu tác giả của nó đã xếp sắp làm ba phần: Gạo trắng nước trong, Giấc mơ mặt trời, Mỗi sớm mây qua, ngụ ý chưng diện theo trình tự nhất định để độc giả khỏi lạc lối. Nhưng  độc giả cũng đủ kiểu, đủ dạng tuỳ sở thích và cái tạng thưởng thức chiêm ngưỡng nữa. Riêng tôi, ý tưởng tập trung nhất trong thơ Trần Kim Hoa được xoay quanh trục quay về một khái niệm SỐNG. SỐNG được nghệ thuật hoá làm nên dòng nhựa nguyên sinh nuôi cây thơ xanh tốt. Ở đấy ẩn náu trái tim thơ như sợi tơ đàn, gạch nối thanh âm giữa hôm qua và hôm nay, giữa hạnh phúc và cô đơn, giữa mơ và thực. Có lúc trái tim thơ yếu đuối tưởng chừng tan chảy: khép cánh miên miên buồn/tiếng hót màu hổ phách/có một lối về mảnh như sợi khói (Hoạ mi).

Nhưng cuộc sống luôn luôn chuyển động, không đứng yên.
Hôm qua: đêm đêm những mái tranh không ngủ/vọng thinh không những tiếng nói mơ hồ/nửa trời bên kia vầng dương thao thức/bời bời gió trổ lòng tôi (Hướng dương). Quá khứ vẫn trổ cành qua hiện tại: tháng chạp vườn sương lá dong xanh thắc thỏm/gừng biết cay con gái biết thì (Tháng chạp). Và nở hoa cho ngày mai: ngày mai con ta đến lớp cặp kính cận ngay ngắn trên sống mũi/vẻ trịnh trọng thơ ngây lạ lẫm/bao nhiêu ngày mai, bao nhiêu cánh cửa đóng chặt được mở ra (Tỉnh táo).
Cuộc sống như cơn lốc và con người sẽ vẫn cảm thấy cuốn theo nó, tắm cùng ánh sáng và bóng tối. Hạnh phúc như tia chớp vụt hiện: một đêm/ mây thật trắng/ mây lật những đường cày thơm phức/ lũ cua đồng líu ríu đợi người ngoan (Một đêm gió lạnh về). Con người tự vấn và không thể không nghi hoặc, mệt mỏi trong cái guồng quay không giới hạn: người đã sống thế nào/đã dằn vặt ra sao/con đường u tối đã phân định (Một sớm mai). Nhiều lúc nhà thơ cảm thấy sự cô đơn tuyệt đối, bao phủ lên chiếc bóng nhỏ nhoi giữa cõi nhân sinh: phút khóc một mình cay đắng chỉ mình hay/ những con chữ hiện lên đơn độc (Ba khổ thơ buồn). Và thất vọng như giọt lệ khô cùng ngày tháng: đêm, lại đêm/ vạn lý tình di thiên cổ/trường thành bất tận/xoá dấu em rồi (Tình yêu biết có còn chăng).

Có điều lạ trong khi hiện thực tồn tại như chiếc bóng phản chiếu, dưới con mắt nhà thơ cuộc sống lại đầy kỳ ảo. Mỗi bài thơ trong Hoạ mi năm ngoái như một giấc mơ. Một giấc mơ đã qua và một giấc mơ đang tới. P.Reverdy cho rằng: “Cuộc đời của nhà thơ là một giấc mơ bất tận - mơ hiện thực. Giấc mơ của nhà thơ là một giả thiết về cuộc sống, cũng như giả thiết của nhà bác học là một giấc mơ khoa học”. Giấc mơ, một trạng thái nằm ngoài hiện thực, có thể nói đối lập với hiện thực. Nhưng trong thơ biểu cảm giấc mơ lại đồng nhất với hiện thực, tạo ra thứ hiện thực huyền ảo. Chẳng hạn như khi nói đến sự trải nghiệm: bây giờ sao khó cất lời / nói khác điều mình nghĩ chỉ dối người/nghĩ khác điều mình có chỉ dối mình (Giá như); sự hoá thân: hình như có lúc em làm gì cũng sai / hình như nhiều khi em như người khác (Trong mơ). Và sự tái ngộ, trở về với chính mình: Ngọn gió rong chơi qua bao huyền sắc/đậu xuống ngẫm nghĩ nơi những ngón tay gầy xanh của em (Điệu thức tháng tư).

Giấc mơ đem tới người đọc cái cảm giác siêu hình, thoát ra khỏi hình thức ngôn từ, chỉ có thể nhận biết, sở hữu qua con đường xúc cảm tác động vào tâm trí. Với Trần Kim Hoa tình yêu cũng là giấc mơ:
rồi lại trở về nơi cất bước ra đi
rồi lại buồn vui đau khổ như chưa bao giờ như vậy
những giấc trinh nguyên
                                                (Mỗi sớm mây qua)
Giấc mơ con người rồi sẽ tan khi mặt trời lên. Nhưng giấc mơ thơ còn đấy, nó sống mãi trong tâm hồn người đọc, bởi sau những dòng chữ kia là tình cảm, thái độ người tạo ra nó.

Trần Kim Hoa không chủ ý lấy thủ pháp nghệ thuật làm cơ sở sáng tạo. Hình thức thơ chị là hình thức lẫy ra từ tâm trạng. Dẫu chị muốn biểu đạt thơ mình bằng lối giản dị, chân thật để người đọc dễ dàng tiếp nhận, nhưng sự sáng tạo vượt ngoài ý định chủ quan không theo một quy luật, một khuôn phép nào cả. Chính sự bừng thức của cảm xúc và tư duy lôi kéo ngôn ngữ, bắt ngôn ngữ đi theo lập trình khác, ngay cả chủ thể sáng tạo cũng không kiểm soát được nó. Mỗi bài thơ trong Hoạ mi năm ngoái là một sự vận động của điệu thức cá biệt, không hàm ngôn, nhưng không dễ nhận biết. Cái mới của thơ Trần Kim Hoa không lao vào cuộc tìm kiếm chữ nghĩa, tạo từ. Ở chị, ngôn ngữ được đặt đúng vị trí thì câu thơ cất cánh, có sức hấp dẫn. Do vậy dưới hình thức nào, câu chữ vẫn biến thành sức mạnh cảm hoá. Nói với mùa đông Ngậm ngùi, hai bài thơ thể lục bát dễ đọc nhất, vậy mà câu kết mỗi bài chữ nghĩa thì ở thế tĩnh mà tình cảm tư tưởng lại ở thế mở:
mặc lòng bóng nước mây trôi
mùa đông cùng với một người ra đi
và:
sông sâu bồi lở một mình
đồng trăng quạnh gió, sân đình ngói phơi...

Có cái gì xa thẳm, quạnh hiu. Cảnh vật thiên nhiên nhập vào hồn người, hay hồn người nhập vào cảnh vật thiên nhiên, thật khó phân định. Nhưng rõ ràng làm ta day dứt, bâng lâng như chính mình vừa chia xa một con người, để buột khỏi ảnh hình nào đó trong trời đất. Ngược lại ở các bài thơ kiểu văn xuôi, như Trái đất đang nóng lên, câu thơ chẳng mượt mềm chút nào: Người với người đang mỏng đi, cỏ cây cũng đang mỏng đi, mây trắng hơn và đất đai mỗi ngày mỗi bạc, lại day dứt ám ảnh ở chiều khác, làm ta giật mình bởi giữa thế giới văn minh hiện đại này đang hiện diện: Người không hình bóng.
Trái tim thơ Trần Kim Hoa đã nhiều khi yên lặng khóc trong lòng tay, nhưng không vì thế mà cam lòng chìm cùng số phận đa đoan con người:
trong bộn bề tôi trống rỗng tôi đằng đẵng trôi
chen vào giọng nói tôi, cái nhìn tôi, nhịp đập mông lung của tôi
nghèn nghẹn động mạch đỏ

như lúa chín vãi cánh đồng bão
nửa thứ hai của tôi, sinh đôi cùng tôi, cuộc đời ẩn khuất của tôi
gom tôi về, hong khô tôi, sàng sảy tôi, cất tôi trong chum kín
mặc tháng ba ngày tám
dứt khoát đưa tôi tới mùa màng
Vậy đấy, trong âm vang hoạ mi năm ngoái kia, nó còn mang sức mạnh vô hình của tiếng nói thăm thẳm từ một trái tim ương bướng vực con người đứng dậy.
Cửa biển Nhật Lệ, mùa bão
14-11-2006
                                                H.V.T

(nguồn: TCSH số 216 - 02 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.