TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Từ ngày 9 đến ngày 24/11/2021, tại thủ đô Paris (Pháp), Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 đã vinh danh nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Danh nhân văn hóa Nguyễn Đình Chiểu - Ảnh: vtv.vn
Trong năm 2022, nhân sự kiện kỷ niệm 200 năm ngày sinh nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, đã có nhiều hoạt động được diễn ra ở Bến Tre, Thừa Thiên Huế và nhiều tỉnh thành khác.
Thừa Thiên Huế rất tự hào vì đây là quê nội của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu ở làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền. Nơi đây, hiện còn tổ đường họ Nguyễn Đình và ngôi mộ ngài Nguyễn Đình Huy, thân sinh cụ Đồ Chiểu. Chính vì điều này đã giúp chúng tôi giới thiệu về gia thế của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu ở quê hương Thừa Thiên Huế, cũng là góp phần giúp thế hệ trẻ, nhất là học sinh phổ thông, và sinh viên yêu thích văn học có điều kiện hoạt động trải nghiệm di sản văn hóa và di sản thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ngay chính trên quê hương mình.
Làng Bồ Điền, hướng mặt ra sông Bồ xanh mát quanh năm, là nơi hội tụ nhiều yếu tố văn hóa truyền thống, bởi bao quanh làng lại có những làng văn vật nổi tiếng như làng rèn Hiền Lương, làng Hiền Sĩ, làng Phò Ninh, làng An Lỗ với nhiều dấu tích xưa cũ và cũng là cái nôi đất học và tài năng của Thừa Thiên Huế xưa và nay. Ngay hai chữ tên làng Bồ Điền có nghĩa là ruộng tốt, thơm hương1 đã hun đúc tinh thần hiếu học và truyền thống văn hóa gia đình cho nhiều thế hệ. Và chính nơi đây còn lưu lại nhiều dấu ấn của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Trên đường tìm về cội nguồn của dòng họ Nguyễn Đình ở làng Bồ Điền, các nhà nghiên cứu ở Huế cho biết thủy tổ của họ Nguyễn Đình nguyên quán từ đất Bắc, sau đó đi vào Nam, nhập tích Thuận Hóa: “Họ Mạc không thần phục, làm loạn Trung Hoa, nên ngài Cao Cao Cao tổ bỏ tối theo sáng vào xứ Thuận Hóa, phủ Triệu Phong, huyện Quảng Điền, xã Bồ Điền mở đất bao chiếm. Từ đó về sau thế đại nối truyền phát tích ở nơi này. Thực từ khai canh Nguyễn quý công ban đầu đến các đời nối tiếp thì gia phổ thư tịch đều mất hết, không thể xem xét đời trước trải đến đời sau không thể khảo được”2.
Sau thời gian khai khẩn lập làng, quy tụ dân cư xiêu dạt đến với Bồ Điền thì làng quê khởi sắc, đời sống ổn định, đình miếu được tạo lập. Để ghi nhớ công lao của người mở cõi, lập làng, “về sau ngài thủy tổ được chính quyền nhà Nguyễn cấp ban sắc phong thần, tôn phong làm khai khẩn của làng Bồ Điền. Khởi đầu từ ngài Cao tổ là ông Nguyễn Thế Lại, đến đời ông Nguyễn Đình Đế và Nguyễn Chánh Nghĩa biệt xuất làm hai phái. Về sau, nhánh của cụ Nguyễn Đình Chiểu tôn ông Nguyễn Đình Đế trở thành ngài Cao cao tổ.
Họ Nguyễn Đình từ đó kế thừa qua các đời, rồi phân thành các chi, nhánh khác nhau. Bản gia phả “Nguyễn Đình tộc Nhất phái Tam chi”, bắt đầu chép từ ngài đệ ngũ thế “Cao cao cao cao cao tổ khảo Cai tổng Trúc Sơn Nguyễn Đình Thảo”. Tương tự, trong bản gia phả “Nguyễn Đình tộc Nhất phái Đại phái” lần lượt chép từ đời thứ 5, nối từ đời ông Nguyễn Đình Thảo đến thứ 6 là ngài Nguyễn Đình Hiên, đạo hiệu Huyền Chơn, con trưởng ngài Thảo rồi truyền xuống đời ngài Nguyễn Đình Thung, Nguyễn Đình Vân, Nguyễn Đình Ánh”3.
Dòng họ của Nguyễn Đình Chiểu ở làng Bồ Điền vẫn có nhiều người đóng góp công sức cho triều đình và đất nước. Đặc biệt đến đời thứ 7, người con trai thứ hai là Nguyễn Đình Thung sinh hạ ba trai và hai gái, với người con trai thứ ba là Thận Cần hầu Nguyễn Đình Vân (ông cố của Nguyễn Đình Chiểu) từng làm ở Thọ Khương Thượng khố, Viên Định Nhị thuyền Đội trưởng thuộc Long Võ vệ. Ông có với bà vợ thứ ba người con trai là Nguyễn Đình Ánh (ông nội cụ Đồ Chiểu) và con gái Nguyễn Thị Hoãn. Ở thế hệ này, còn có ông Nguyễn Đình Trọng tham gia thủy binh ở Phú Nhất thuyền, là một đạo sĩ - Bích Giản Năng sư, đạo hiệu Huyền Thông, tước Toán Sơn bá. Trong đó, ngài Nguyễn Đình Ánh kết hôn với bà Phạm Thị Ngoan sinh hạ được 6 người con gồm Nguyễn Đình Vượng, Nguyễn Đình Cảnh, Nguyễn Đình Huy, Nguyễn Thị Diệu, Nguyễn Thị Dịu, Nguyễn Thị Ba.
Riêng ông Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 29 tháng Chạp năm Nhâm Tý (9/2/1793), nguyên quán làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, lập gia thất với bà chánh thất Phan Thị Hữu người cùng làng, sinh được hai người con là Nguyễn Đình Lâu, Nguyễn Thị Phu. Khi vào Gia Định làm việc, ông Nguyễn Đình Huy lấy thêm bà thứ Trương Thị Thiệt, sinh được 7 người con gồm Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Đình Tựu, Nguyễn Đình Tự, Nguyễn Đình Huân, Nguyễn Thị Thục, Nguyễn Thị Nữ và Nguyễn Thị Thanh.
Về phần cụ Nguyễn Đình Huy, thân sinh của Nguyễn Đình Chiểu, tuy một cảnh hai quê trong mối quan hệ xa cách là Kinh đô Huế với Gia Định, nhưng ông vẫn làm tròn phận sự của người chồng, người cha đối với vợ con. Những năm cuối đời, ông vẫn giữ chức trưởng tộc họ Nguyễn Đình ở làng Bồ Điền. Vì vậy, việc tế tự ở từ đường dòng họ ông phải lo toan cho đến khi qua đời. Ông Nguyễn Đình Huy mất ở Bồ Điền (không rõ năm). Sự mất đi của người cha thì lúc đó Nguyễn Đình Chiểu cũng đã bị mù, xa xôi cách trở và vì mù mắt “nên không thể trở lại tổ hương để chịu tang cha, chưa một lần được thắp nén hương trên nấm mồ của người cha thân yêu. Nguyễn Đình Chiểu không biết được rằng trên dưới 150 năm nay, nơi an nghỉ của cha mình vẫn là nấm mồ đất”4.
![]() |
Nguyễn Đình Chiểu, tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ - sau khi mù đổi thành Hối Trai, sinh ngày 1/7/1822 (nhằm ngày 13/5 Nhâm Ngọ), tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định; nay là phường Cầu Kho, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu đã gặp không ít trắc trở, thế nhưng sau hai lần về sống và học tập ở quê cha Thừa Thiên Huế được 8 năm, Nguyễn Đình Chiểu đã thấm nhuần một phần văn hóa và truyền thống giáo dục của quê hương nguồn cội là kinh đô Huế. Chính nơi đây đã góp phần hình thành nên nhân cách một nhà thơ, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam.
Năm 1820, vua Minh Mạng cử Tả quân Lê Văn Duyệt giữ chức Tổng trấn Gia Định, ông Nguyễn Đình Huy theo vào làm thư lại ở Văn hàn ty của Lê Văn Duyệt. Khi xảy ra sự kiện Lê Văn Khôi chiếm thành Phiên An, Nguyễn Đình Huy đã bỏ trốn ra Huế nên bị cách hết chức tước. Sau đó ông cải dạng lén trở vào Nam đưa Nguyễn Đình Chiểu ra Huế năm 1833. Mặc dầu còn nhỏ tuổi, nhưng Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nhận thức sâu sắc được sự lo sợ của cha trước triều đình, sự lo toan vất vả của mẹ ở Gia Định. Vì thế, “Sự kiện hãi hùng này cùng với những điều tai nghe mắt thấy trong suốt 8 năm ông theo học ở Huế và chế độ quan trường hẳn đã gợi lên trong lòng ông những suy nghĩ đầu tiên về thời thế, công danh, về đạo lý làm người, nhất là về đất nước dân tộc”5.
Sau khi được cha đưa về Huế, Nguyễn Đình Chiểu được cha gởi cho một người bạn cũ là một vị Thái phó mà qua lời kể của Nguyễn Đình Chiêm, tên tuổi đến nay ta không được biết, chỉ biết rằng quan Thái phó là một bậc túc nho tài đức nổi tiếng ở kinh đô. Nguyễn Đình Chiểu ở đấy vừa lo việc điếu đãi, vừa học hành, khoảng tám năm. “Chắc chắn qua thời gian tám năm, với tuổi thanh niên, được mẹ hiền chăm sóc từ bé, được thầy tốt giảng dạy, khi ra Huế có thêm điều kiện thuận lợi hơn: thầy thì tài đức có tiếng tăm, sách vở nhiều, quan hệ với người lao động trong nhà, hàng xóm, với học sinh trường kế cận, do đó mà Nguyễn Đình Chiểu học tập ngày càng tiến bộ, hẳn đã có những kết quả vượt bực. Thế là tám năm học tập ở Huế, Nguyễn Đình Chiểu được bồi dưỡng thêm nhân nghĩa truyền thống Việt Nam, đồng thời phát hiện được mặt tích cực ở tác phẩm Tây minh phù hợp với truyền thống dân tộc”6. Nguyễn Đình Chiểu ở Huế 8 năm, chuyên tâm học hành cho đến năm 1840 thì trở lại Gia Định tiếp tục học tập và khoa thi năm Quý Mão (1843), Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài.
Năm 1847, ông lại trở ra Huế lần thứ hai, đợi dự chính khoa kỳ thi hương năm Kỷ Dậu (1849). Nhưng chưa đến kỳ thi thì nhận được tin mẹ là bà Trương Thị Thiệt qua đời (10/12/1848), Nguyễn Đình Chiểu cùng em là Nguyễn Đình Tựu trở về Gia Định chịu tang mẹ. Dọc đường do quá thương mẹ, lại gặp thời tiết và bệnh mắt nên ông bị mù. Tuy nhiên, chính sự cố nặng nề này lại càng hun đúc, tôi luyện giúp ông trở thành một tác gia với nhiều tác phẩm nổi tiếng, ghi đậm dấu son trong lịch sử văn hóa Nam Bộ, toàn bộ tác phẩm của ông đều được xem là “có sự kết hợp thống nhất, hài hòa, như là thiên bẩm trời phú giữa nhà giáo đạo đức cao cả, với người thầy thuốc thương dân và nhà thơ yêu nước tha thiết, bộc trực, nhà văn hóa chăm lo giữ gìn phát huy bản sắc truyền thống đạo nghĩa dân tộc”7.
Sau khi mãn tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học, làm thuốc, và sáng tác thơ văn. Ông kết hôn với bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, tỉnh Gia Định, sinh hạ Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Đình Chúc, Nguyễn Thị Xuyến, Nguyễn Thị Khuê (Sương Nguyệt Anh), Nguyễn Đình Chiêm và Nguyễn Đình Ngưỡng và một người chết nhỏ trước Nguyễn Đình Chiêm8.
Có thể nói, những hình ảnh về đời thực mà Nguyễn Đình Chiểu cảm nhận được trước khi bị mù là gắn liền với Huế.
Nguyễn Đình Chiểu “là nhà thơ được đào tạo trong các trường ốc của đạo Nho và Hán học, thông tỏ các sách vở kinh điển của Nho gia và am hiểu các quy tắc, luật lệ sáng tác thơ, phú, văn tế”9. Những sáng tác của ông không chỉ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn học của giới bình dân Nam Bộ mà còn lan tỏa ra đến tận kinh đô Huế. Những tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp hoặc đến những bài văn tế đều lay động lòng người.
Chính vì thế mà ở kinh đô Huế, hoàng tử Tùng Thiện Vương Miên Thẩm và công chúa Mai Am đã thấu hiểu được tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu đối với nghĩa sĩ lâm trận vì dân vì nước10. Do đó, khi đọc văn tế của Nguyễn Đình Chiểu thì Tùng Thiện Vương Miên Thẩm đã làm bài thơ Độc Nguyễn Đình Chiểu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn (Đọc bài văn ông Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân chết vì nước):
Nguyên văn:
Chiến trường hựu bả điếu văn khai
Lạp đạp biên thanh nhất nhất lai
Quốc ngữ danh tề Manh Tả sử
Quỉ hùng ca đáo Khuất Bình ai
Yết can trản mộc kham thiên cổ
Oán bạc đề viên tinh kỷ hồi
Chi cánh thư sinh không bút trận
Báo quân chi thử diệc bi tai!
Dịch thơ:
Lại đọc thơ ông điếu chiến trường,
Tin về dồn dập giặc biên cương,
Tiếng văn nôm giỏi tày Manh Tả
Khúc Quỷ hùng thương giống Khuất Bường,
Gươm gỗ, giáo sào gương dũng cảm,
Vượn kêu, hạc oán nỗi bi thương!
Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút,
Báo nước ngần này cũng đáng thương.
Đây là lời tỏ lòng khâm phục của mình đối với nhân dân Nam Bộ và đối với nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu sau khi Tùng Thiện Vương Miên Thẩm đọc bài Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh.
Công chúa Mai Am lại có bài thơ Độc điếu nghĩa dân tử trận văn (Đọc bài văn điếu nghĩa dân chết trận) như sau:
Nguyên văn:
Điếu văn tam phục trung đê hồi
Nghị phách từ phong tẫn khả ai
Xích tử cần vương năng địch khái
Thư sinh dung võ tích phi tài
Yên mê chiến lũy Tây nhung mãn
Nguyệt lãnh sa trường hạch cốt đôi
Quốc ngữ nhất thiên truyền bất hủ
Tuyệt thăng Quảng-hán yêm khô hài.
Dịch thơ:
Bồi hồi đọc mãi bản văn ai,
Phách cứng văn hùng cảm động thay!
Dân chúng cần vương vì ghét địch,
Nhà nho lâm trận tiếc không tài,
Giặc đầy chiến lũy tầng mây phủ,
Xương chất sa trường bóng nguyệt soi!
Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi,
Còn hơn xây mộ cất khô hài.
Bài Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh của Nguyễn Đình Chiểu đã được chép gửi đi các nơi. Mai Am nữ sĩ (tức là Lại Đức công chúa - em ruột của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm) đang lúc ở Huế, có dịp được đọc bài văn tế đó, bà rất xúc động làm bài thơ này, để tỏ lòng khâm phục của mình đối với tác giả bài văn tế. Qua bài thơ của Mai Am, chúng ta cũng thấy được tình cảm của nữ sĩ đối với nhân dân Nam Bộ, cụ thể là đối với các chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong truyện thơ Lục Vân Tiên, nhiều tên đất, tên làng có bóng dáng những nơi ông đã đi qua và sinh sống. Hình ảnh kinh đô được nhắc đến trong truyện thơ có thể cảm nhận là Huế đã đọng lại dấu ấn trong ông. Địa danh Hà Khê, được nhắc đến là nơi cha của nàng Kiều Nguyệt Nga làm tri phủ trong câu thơ:
“Thôi thôi em hỡi Kim Liên
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê”
Địa danh Hà Khê khiến người đọc gợi nhớ tới vùng đồi Hà Khê, nơi có chùa Thiên Mụ. Hà Khê vốn là tên làng cổ ở huyện Kim Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa vào thế kỷ XVI. Trên đất cũ của làng Hà Khê về sau thành lập làng Kim Long và làng Xuân Hòa (nay thuộc phường Kim Long và phường Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế). Cũng chính từ địa danh Hà Khê và tích truyện Lục Vân Tiên mà người Huế có câu hò ru em rằng:
Kim Liên ơi hỡi Kim Liên
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê
Hà Khê nước chảy bốn bề
Chim kêu vượn hú biết về nơi mô.
Có thể nói, Lục Vân Tiên là một truyện thơ hay viết theo lối kể chuyện, văn chương gần gũi với cuộc sống đời thường, được chuyển thể sang các lĩnh vực sáng tác khác như sân khấu, cải lương, kịch nói. Tác phẩm Lục Vân Tiên đã được lưu truyền rộng khắp vùng đất Nam Bộ cho đến kinh đô Huế. Vì thế trong văn học dân gian xứ Huế, ít nhiều cũng có sự xuất hiện các tích truyện Lục Vân Tiên, đưa thơ Vân Tiên vào trong hò bài chòi có câu:
“Đặt bàn hương án cầu nguyền
Họa ra bức tượng Vân Tiên để thờ”.
(Con tứ tượng)
Nếu như ở miền Nam khi muốn đọc truyện thơ Lục Vân Tiên thì người ta thường mở đầu có câu ca dao gợi mở:
“Vân Tiên, Vân Tiển, Vân Tiền
Cho tôi một tiền, tôi nói Vân Tiên”.
Còn đối với người dân xứ Huế, hình tượng Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga là tấm gương soi sáng cho tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt dẫu cho có đến chết vẫn không rời. Đó là những câu ca dao như sau11:
“Lan tàn huệ thế đặng không
Hay là thủ tiết thờ chồng nuôi con?
- Em đây là Nguyệt Nga chứ không phải Thể Loan
Hồn có về chín suối, vai cũng mang tượng chồng”.
Hoặc:
“Đôi ta như Nguyệt Nga ngày trước
Đã trao lời nguyền ước với Vân Tiên
Dù khi qua cống Tây Phiên
Vai mang bức tượng, giữ lời nguyền không phai”.
Và rồi:
“Nguyệt Nga xa Vân Tiên, vai mang bức tượng, ôm lòng thủ tiết
Thúy Kiều xa Kim Trọng lưu lạc mười lăm năm
Huống chi anh với em mới hết mối tơ tằm
Dù ngày sau thầy từ mẹ ghét, thiếp vẫn chí lăm thương chàng”.
Vùng đất và con người Huế nơi quê nội vẫn đau đáu trong tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu. Việc chính sự của triều đình với thực dân Pháp vẫn được ông dõi theo bởi mười năm sau khi Nguyễn Đình Chiểu bị mù, thực dân Pháp xâm lược nước ta, thông tin về quê cha cũng đồng thời là Kinh đô đất nước với nhiều biến động vẫn là mối quan tâm của ông. “Nguyễn Đình Chiểu phê phán vua Tự Đức nhưng rất tin tưởng vua Hàm Nghi - một ông vua trực tiếp chống Pháp. Năm 1888, khi nghe tin vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, ông đau buồn vô hạn, lại vốn đã mang bệnh trong vài năm qua, cơ thể thêm hao mòn, ông trút hơi thở cuối cùng ngày 3/7/1888”12.
Sau này, nối chí theo cha, trong số 7 người con của Nguyễn Đình Chiểu có bà Nguyễn Thị Khuê, tự Nguyệt Anh, hay chữ, hay thơ, chủ bút tờ báo Nữ giới chung, là tờ báo đàn bà trước tiên trên đất Việt. Bà sớm góa chồng, sương cư thủ tiết, bút tự Sương Nguyệt Anh.
Ông Nguyễn Đình Chiêm, tự Trọng Vĩnh, cũng hay chữ, hay thơ, có đặt những tuồng hát bội có tiếng là Nê Mã Độ Khương Vương, Phấn Trang Lầu và Nam Tống Tinh Trung13.
Tóm lại, việc hình thành nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu được bắt đầu từ mạch nguồn văn hóa xứ Huế, bởi người cha từ Huế vào vùng đất mới kết thêm lương duyên với người con gái Gia Định - mẹ của Nguyễn Đình Chiểu. Và điều này thực sự đúng với nhận định của cố Giáo sư Nguyễn Thạch Giang rằng: “Nguyễn Đình Chiểu từ bé đến lớn đã được giáo dục chu đáo, và bản thân ông cũng không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện để tự tạo cho mình một khả năng kiến thức đủ để hoàn thành sự nghiệp.
Người mẹ của Nguyễn Đình Chiểu là người có công đức cao dày nhất, người đầu tiên đã gieo rắc vào tâm trí non trẻ của ông những ấn tượng sâu sắc về khí tiết, cốt cách con người Việt Nam sinh ra trên đất Sài Gòn - Gia Định. Cha của ông, tuy bận công việc thơ lại hằng ngày, ít gần gũi con, nhưng vẫn chú ý giáo dục con trong gia đình. Ông vốn có kiến thức, học vấn nên thường chăm sóc việc học của con là khi Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu học vỡ lòng”14.
Ngày nay, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã có một hệ thống các di tích lịch sử, văn hóa, giáo dục liên quan đến gia thế và nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hiện đang được bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích và được lồng ghép với việc giáo dục hoạt động trải nghiệm cho học sinh một cách tích cực như Từ đường Nguyễn Đình; mộ phần của cụ Nguyễn Đình Huy thân sinh của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Một tin vui là Quỹ văn hóa Huế do Phân viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tại Huế và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế - Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế cùng gia tộc và quê hương xây dựng lại lăng mộ cụ Nguyễn Đình Huy, phần nào cũng làm ấm lòng hương hồn Nguyễn Đình Chiểu ở nơi xứ dừa Bến Tre và Nam Bộ.
T.N.K.P
(TCSH46SDB/09-2022)
-----------------------------------
1 Dương Phước Thu (Chủ biên), Ban chấp hành Đảng bộ xã Phong An: Lịch sử Đảng bộ xã Phong An (1930 - 2020). Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2022, trang 17.
2 Trần Đình Hằng: Thăm cố hương Văn hàn ty Nguyễn Đình Huy. Báo Thừa Thiên Huế, số ra ngày 8/5/2022. Trang web: https://baothuathienhue.vn/tham-co-huong-van-han-ty-nguyen-dinh-huy-a112686.html.
3 Nguyễn Đức Lộc, Đỗ Minh Điền: Nhận diện và bảo tồn, phát huy di tích liên quan đến danh nhân Nguyễn Đình Chiểu trên địa bàn Thừa Thiên Huế. Tập san Văn hóa Huế, số 45/2022, trang 43.
4 Nguyễn Thế: Tổ hương và ngôi mộ thân sinh Nguyễn Đình Chiểu ở Thừa Thiên Huế. Báo Thừa Thiên Huế, số ra ngày 22/1/2022. Trang web: https://baothuathienhue.vn/to-huong-va-ngoi-mo-than-sinh-nguyen-dinh-chieu-o-thua-thien-hue-a109183.html.
5 Nguyễn Ngọc Thiện (Tuyển chọn và giới thiệu): Nguyễn Đình Chiểu - Về tác giả và tác phẩm. Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003, trang 34.
6 Nguyễn Ngọc Thiện, Sđd, trang 49, 50.
7 Nguyễn Ngọc Thiện, Sđd, trang 12.
8 Nguyễn Ngọc Thiện, Sđd, trang 29.
9 Nguyễn Ngọc Thiện, Sđd, trang 13.
10 Bảo Định Giang (biên soạn), Ca Văn Thỉnh (giới thiệu): Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, trang 279, 280, 281, 282.
11 Triều Nguyên: Ca dao Thừa Thiên Huế. Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế xuất bản, Huế, 2005, trang 295, 479, 572.
12 Nguyễn Ngọc Thiện, Sđd, trang 39.
13 Nguyễn Ngọc Thiện, Sđd, trang 29.
14 Nguyễn Ngọc Thiện, Sđd, trang 47, 48.
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.