Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Chân dung Erik Satie do Suzanne Valadon, mối tình duy nhất trong đời của ông, vẽ năm 1893.
Các sáng tác cho piano của ông, nổi tiếng nhất là tổ khúc Gymnopédies (1888) và tổ khúc Gnossiennes (1893), đóng vai trò lĩnh xướng cho các thử nghiệm của giới soạn nhạc trong suốt thế kỷ 20. Việc Satie yêu thích sự lặp lại trong giai điệu và thay đổi về hòa âm đã giúp hình thành nền tảng cho trường phái New York (bao gồm Cage, Feldman, Wolff...) và trường phái tối giản Bờ Tây (bao gồm Terry Riley, Steve Reich). Thậm chí có thể thấy các cấu trúc tác phẩm của ông như A-B-A-B-C-B trong mọi thể loại, từ nhạc jazz thời kỳ đầu đến nhạc pop đương đại. Dù âm nhạc của ông sống vượt thời gian, được yêu thích cho đến tận ngày nay nhưng rất ít người hâm mộ biết về những nét lập dị trong cá tính của ông và càng ít biết hơn đến một số tác phẩm đã khiến ông trở nên “khét tiếng” trong đội ngũ những người đương thời ở Paris hồi cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
1. Tác phẩm có motif lặp lại 840 lần
Đó là Vexations (Những phiền hà, 1893), tác phẩm chứa một tiết nhạc bè trầm duy nhất được đệm bằng những hợp âm ở quãng trên nó. Tác phẩm được cho rằng viết cho đàn phím nhưng bản tổng phổ không chỉ rõ là dành cho nhạc cụ nào. Phía trên khuông nhạc có lời chỉ dẫn như sau: “Để chơi motif [nhạc tố] này 840 lần liên tiếp, mỗi người cần chuẩn bị sẵn sàng, trong sự im lặng thẳm sâu nhất, bằng sự bất động trang trọng.”
Vexations chỉ được biểu diễn trọn vẹn một vài lần. Nổi tiếng nhất là buổi công diễn lần đầu ở New York năm 1963 dưới sự chỉ huy của John Cage.
2. Sáng lập tôn giáo của riêng mình
Những năm 1891-1892, Satie được mời sáng tác cho một giáo phái thần bí do Joséphin Péladan, bạn thân của ông, sáng lập. Sáng tác thời kỳ này của ông ảnh hưởng mạnh mẽ đến tác phẩm của Olivier Messiaen và các nhà soạn nhạc thần bí khác.
Sau khi mối quan hệ cá nhân với Péladan đổ vỡ, Satie tự sáng lập một giáo phái thần bí của riêng mình vào năm 1893 mà cho đến nay, ông vẫn là tín đồ duy nhất.
3. Duy một mối tình
Trong thời gian làm nghệ sĩ piano dự bị tại hộp đêm Le Chat Noir (Con mèo đen) năm 21 tuổi, Erik Satie đã gặp Suzanne Valadon1, cô gái sống trong căn hộ liền kề với căn hộ của ông. Ngay sau lần gặp vào một đêm tháng giêng năm 1893, Satie đã cầu hôn Valadon. Sáu tháng sau đó, họ đã vẽ chân dung nhau và cùng thả thuyền đồ chơi ở Vườn Luxembourg trong khi Satie ngày một dấn sâu hơn vào những thử nghiệm hậu âm điệu (post-tonality).
Suzanne Valadon đột ngột bỏ Satie trong lúc ông đang soạn Vexations. Satie nói rằng sau khi Valadon bỏ đi thì “chẳng còn gì ngoài nỗi cô đơn lạnh lẽo tràn ngập cái đầu trống rỗng”. Đây là mối tình sâu sắc lãng mạn duy nhất mà Satie từng có.
4. Bị bạn bè gọi là Ông Nghèo và luôn mang theo búa để tự vệ
Đến năm 1900, Debussy và Ravel đã rất nổi danh, kèm theo là thành công về tài chính. Trong khi đó, Satie vẫn là một kẻ ngoài cuộc nghèo khó, tiếp tục thể nghiệm ở các hộp đêm và nhà hát tiên phong.
Satie chuyển tới sống tại một khu công nghiệp tồi tàn ở ngoại ô Paris và phải cuốc bộ vài dặm đến các điểm biểu diễn. Người ta thường thấy ông vung vẩy chiếc búa trên đường về nhà, chiếc búa mà ông bảo là mang theo để tự vệ. Cho đến cuối đời, ngay cả khi đã nổi danh hơn, ông vẫn đi đi về về theo lối đó khi vào trung tâm thành phố.
5. 40 tuổi mới tốt nghiệp trường nhạc
Tháng 12/1881, khi mới theo học ở Nhạc viện Paris, Satie bị thầy hướng dẫn Émile Descombes gắn mác “sinh viên lười nhất nhạc viện”. Dù nổi tiếng có trực giác sáng tác nhưng Satie thiếu khả năng thị tấu và các kỹ thuật cần thiết để qua được các lớp đàn phím trung cấp.
Còn chính trong khoảng thời gian bị giảng viên thỉnh giảng Georges Mathias gọi là “vô dụng”, Satie đã sáng tác một vài trong số những tác phẩm được biết đến nhiều nhất của mình, gồm cả Les Gymnopédies mà tính phức tạp hàn lâm của nó được thay thế bằng sự giản dị và sự nhẫn nại kiểu thiền. Năm 1905, ở tuổi 39, Satie trở lại trường nhạc học tiếp về lý thuyết và kỹ thuật cùng với các sinh viên bằng nửa tuổi mình. Ông tốt nghiệp với kết quả xuất sắc nhất lớp vào năm sau đó.
6. Làm nghệ thuật liên ngành từ khi nó chưa được gọi tên
Năm 1917, Satie công diễn lần đầu tác phẩm Parade, một vở ballet tổng hòa trong đó cả nhạc sống, vũ điệu, thi ca, nghệ thuật thị giác, thiết kế sân khấu và thời trang. Nhiều người xem đây là tác phẩm đầu tiên được biểu diễn để vượt thoát khỏi những khuôn mẫu kiểu Wagner về trình diễn hòa nhạc.
Parade cũng nổi bật bởi đội ngũ chuyên nghiệp thực hiện nó - thi sĩ/nghệ sĩ Jean Cocteau viết lời và Pablo Picasso thiết kế sân khấu. Trong khi được nhiều người thuộc giới nghệ sĩ Pháp thời đó ca ngợi, buổi công diễn ra mắt vẫn kết thúc bằng một vụ náo loạn bên ngoài phòng hòa nhạc. Satie còn bị kiện ra tòa do dùng lời lẽ xúc phạm nhà phê bình Jean Poueigh, người đã nhận xét không hay về vở diễn, và phải vào khám tám ngày.
7. Chế độ ăn kỳ quái
Chẳng còn lời nào để nói về đề tài đã được chính Erik Satie nói đến trong Hồi ức của một kẻ mất trí nhớ (1912):
“Đồ ăn của tôi chỉ bao gồm những thực phẩm màu trắng: trứng, đường, xương sườn, mỡ động vật chết, thịt bê, muối, dừa, thịt gà nấu trong nước trắng, hoa quả mốc, cơm, củ cải, xúc xích ướp long não, bánh bao, pho mát (những loại màu trắng), salad trộn kem tươi và một số loại cá nhất định (bỏ da). Tôi đun rượu lên và uống lạnh sau khi pha với nước ép hoa vãn anh. Tôi ăn rất ngon miệng nhưng chưa bao giờ nói chuyện trong khi ăn vì sợ bị nghẹn.”
8. Chưa bao giờ tự coi mình là nhà soạn nhạc hay nhạc công
Không rõ lý do chính xác vì sao nhưng Satie thấy thuật ngữ “phonometrographer” (tạm dịch: nhà khảo âm, với nghĩa đo và chép lại âm thanh) phù hợp để chỉ nghề nghiệp của mình:
“Mọi người sẽ nói với bạn rằng tôi không phải là nhạc công. Đúng rồi. Ngay khi mới bắt đầu sự nghiệp, tôi đã xếp mình vào dạng phonometrographer. Công việc của tôi hoàn toàn mang tính khảo sát âm thanh. Hãy nghe các tác phẩm Fils des Etoiles, Trois Morceaux en Forme d’une Poire, En Habit de Cheval hoặc Sarabandes của tôi – rành rành là các ý tưởng âm nhạc không đóng bất cứ vai trò nào trong việc sáng tác chúng. Khoa học là yếu tố chủ yếu... Tôi nghĩ tôi có thể tuyên bố rằng âm vị học quan trọng hơn âm nhạc. Nó đa dạng hơn. Lợi ích về tài chính cũng lớn hơn, tôi hàm ơn nó vô cùng. Ở bất kỳ sự kiện nào, với một chiếc máy motodynaphone [dùng để đo và chép lại âm thanh], thậm chí một phonometrologist thiếu kinh nghiệm cũng có thể dễ dàng ghi được nhiều âm thanh hơn nhạc sĩ lành nghề nhất trong cùng một thời gian. Đây chính là cách để tôi có thể viết [nhạc] rất khỏe. Và vì thế tương lai nằm ở công nghệ khảo âm.” (Hồi ký của một kẻ mất trí nhớ, 1912)
Đó là những lời huyên thuyên của một nghệ sĩ say rượu hay một tiên đoán uyên thâm về tương lai của âm nhạc?
9. Sáng tạo ra “nhạc nền” trước khi nó được thừa nhận
Đặt ra khái niệm âm nhạc nội thất, Satie hàm ý một trải nghiệm hòa nhạc nơi khán giả cố ý phớt lờ những người biểu diễn. Âm nhạc “như giấy dán tường”, khán giả không chủ ý nghe trong khi nhóm biểu diễn ngồi rải rác khắp khán phòng.
Năm 1902, Satie và nhóm biểu diễn của ông ra mắt âm nhạc nội thất trong một phòng trưng bày nghệ thuật ở Paris. Trước đó, ông đã năn nỉ khán giả của mình lờ đi, coi như không có màn biểu diễn sắp tới. Bất chấp nỗ lực của ông, khán giả vẫn trật tự một cách lịch sự khi buổi biểu diễn bắt đầu.
Các khái niệm về nhạc ambient [thể loại nhạc có thể gợi nên cảm giác về “bầu không khí”, tạo ra nhiều cấp độ về chú ý khi nghe mà không cần bất cứ sự thúc ép nào], tác phẩm sắp đặt âm thanh và ngay cả muzak [một nhánh của nhạc nền, thường được chơi ở các cửa hàng bán lẻ] hay nhạc hành lang đều bắt rễ từ âm nhạc giấy dán tường của Satie. Chúng ta đã chứng kiến âm nhạc nội thất đi từ một buổi biểu diễn thể nghiệm đến một hiện tượng tất yếu dù chúng ta có thừa nhận nó hay không.
10. Cuộc sống thường ngày không bình thường
“Tôi dậy lúc 7:18; lấy cảm hứng từ 10:23 đến 11:47. Tôi ăn trưa lúc 12:11 và rời khỏi bàn ăn lúc 12:14. Một chuyến đi lành mạnh trên lưng ngựa vòng quanh lãnh địa của tôi từ 1:19 đến 2:53 chiều. Một đợt lấy cảm hứng khác từ 3:12 đến 04:07. Từ 4:27 đến 6:47 chiều làm các việc khác nhau (đấu kiếm, ngẫm nghĩ, bất động, thăm viếng, trầm tư, luyện tay, bơi lội, v.v)”
“Bữa tối được phục vụ lúc 07:16 và kết thúc lúc 07:20. Từ 8:09 đến 9:59 tối đọc giao hưởng (thành tiếng). Tôi thường đi ngủ lúc 10:37 đêm. Mỗi tuần một lần, tôi thức dậy với một cú giật mình lúc 03:19 (thứ Ba).”
“Tôi thở một cách chú tâm (mỗi lần một chút). Tôi rất hiếm khi khiêu vũ. Khi đi bộ, tôi ép chặt tay hai bên sườn và đều đặn nhìn lại phía sau.”
“Biểu cảm của tôi rất nghiêm túc; khi tôi cười to thì đó không phải là cố ý và tôi luôn xin lỗi một cách lịch sự nhất.”
“Tôi ngủ mà chỉ nhắm một mắt, rất sâu giấc. Giường của tôi hình tròn, với một cái lỗ để đưa đầu qua. Mỗi giờ một lần, người đầy tớ lấy nhiệt kế của tôi ra và cặp cho tôi một cái khác.”
“Bác sĩ của tôi luôn bảo tôi hút thuốc. Một phần lời khuyên của ông vẫn được lưu truyền: ‘Nhả khói đi, anh bạn; nếu anh không nhả thì người khác sẽ nhả’.”
11. Những chiếc ô
Khi Satie qua đời, bạn bè và gia đình ông mới bước vào căn hộ nơi không ai lui tới đã nhiều năm của ông và phát hiện có hơn 100 chiếc ô chồng chất hỗn loạn giữa những vật dụng khác.
Nguồn: Ngọc Anh - Tia Sáng
---------
Max Alper - Tác giả bài viết là nhạc công, nghệ sĩ âm thanh, người sáng lập start-up phi lợi nhuận Sonic Arts For All!, hiện sống ở New York.
1 Suzanne Valadon (1865-1938): người mẫu và họa sĩ người Pháp, là nữ họa sĩ đầu tiên được nhận vào Hội mỹ thuật Quốc gia Pháp.
NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.
VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
MẶC HY Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."
MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.
NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.
MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.
NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.
NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.
VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.
PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.
LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.
Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.
DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...
NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.
NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...
NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006
HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!
NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).