Dòng đời dữ dội và cốt cách nhà văn Nguyễn Khắc Phê

15:28 25/04/2017

NGUYỄN THẾ QUANG

Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.

Tự truyện nhưng không phải truyện của một vài người mà của cả một gia đình. Gia đình đó thật đặc biệt như cả một xã hội thu nhỏ: có cả một ông bố đệ nhất khoa bảng làm quan lớn cho Nam triều rồi vui vẻ làm cán bộ kháng chiến cùng một người mẹ nghiêm từ, cần mẫn, tảo tần; có một đàn con đông đúc - người thì đi tìm chữ nghĩa ở phương Tây, người đắm mình trong Nho giáo phương Đông, người thì hăm hở trên con đường của chủ nghĩa Mác, người thì lặng lẽ bước theo ánh sáng của Chúa Giê su theo cách của mình… Từ trong những đêm trường mất nước tủi nhục đến cơn gió mạnh của cách mạng tháng 8/1945 rồi kháng chiến trường kỳ, chịu bão tố của những cải cách, bị vùi dập trong đạn bom hủy diệt… họ bị đánh tung ra nhiều nơi, làm đủ mọi nghề, mỗi người mỗi vẻ nhưng dù hoàn cảnh nào cũng đứng vững, giữ được đạo nghĩa của người dân Việt, cũng vẫn tương thân tương kính với nhau. Đó là nét đẹp trọn vẹn hiếm thấy. Đó cũng là nét độc đáo nổi bật của cuốn tự truyện này.

Phần chủ yếu của cuốn sách tập trung nói về mình và hành trình cuộc đời tác giả. Số anh chẳng được thuận cảnh: đang tuổi thiếu niên đã chịu mang thân phận con địa chủ quan lại. Như một hạt cát bé nhỏ trong cơn lốc cải cách ruộng đất - năm 1954, mười lăm tuổi đầu, phải dắt người em gái mới mười tuổi ốm nhách, chạy trốn khỏi xứ Hương Sơn lọt vào đất Hà thành. Túi sách, báo nặng trĩu vai gầy, chạy khắp bến xe, phố chợ rao bán, kiếm đôi đồng xu nhỏ nhoi mà sống. Rồi đi làm “prê-xép-tơ” dạy chữ cho con nhà người, phải làm đủ mọi việc, ngồi bưng bát cơm rau phải nén nước mắt, nuốt cả tủi nhục vào lòng. Cố học xong trường Cao đẳng Giao thông, mang lý lịch con địa chủ, anh lặng lẽ chấp hành mọi sự sắp đặt của tổ chức, hết lên cực Bắc, về đồng bằng, rồi vào tuyến lửa khu IV. Đúng là Số phận không định trước, anh bị cuốn theo giòng chảy cuộc đời!

Không chịu làm một “cọng rêu dưới đáy ao” (hình ảnh cũng là tên một cuốn sách về thân phận con địa chủ của nhà văn Võ Văn Trực), Nguyễn Khắc Phê từng bước, từng bước lặng lẽ vượt lên cảnh ngộ bất hạnh của mình. Làm việc hết mình cùng bao đồng đội trên những cung đường đạn bom ác liệt, giữa những phút yên tĩnh hiếm hoi anh cặm cụi viết. Những bài báo, những bút ký đầu tiên ra đời. Tập ký sự Vì sự sống con đường xuất bản năm 1968 là thành quả đầu tay. Bao lần may mắn vượt qua cái chết, anh chỉ biết làm việc và say viết: viết báo, viết bút ký, truyện ngắn và quyết viết cả tiểu thuyết. Rồi tình yêu giản dị mà dũng cảm của cô giáo Quảng Bình chắp thêm sức mạnh cho anh. Những trang tiểu thuyết đầu tiên được hình thành. Trong năm 1976 anh cho ra mắt Đường qua làng Hạ Đường giáp mặt trận. Dòng đời trôi chảy “thuyền xô sóng dậy/ sóng đẩy thuyền lên,” anh được điều về Hội Văn nghệ Quảng Bình, làm công tác biên tập tạp chí Văn nghệ của tỉnh. Cuối năm 1976 cơn gió nhập tỉnh đưa anh về Huế, làm việc ở Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên. Sống giữa bao bậc đàn anh, đàn chị trên văn đàn khi tiếng súng đã ngừng nhưng anh hiểu cuộc chiến trên mặt trận văn chương không dễ dàng chút nào. Lặng lẽ khiêm nhường, đem hết sức mình trong công tác biên tập báo chí vừa dồn sức cho sáng tạo văn chương, anh vừa chấp nhận đi theo cái chung, vừa quyết tạo những bước đi riêng vững chắc cho riêng mình. Vẫn gắn với những đồng đội công nhân anh hùng, khẳng định vẻ đẹp của họ, anh bắt tay tái tạo, xây dựng hình ảnh lớp thanh niên trí thức trong cuộc chiến của dân tộc. Trong khi nhiều nhà văn đi theo lời chỉ dẫn: miêu tả cho hay, cho hùng hồn vẻ đẹp của Công Nông Binh thì sự lựa chọn ấy của anh là một sự mới mẻ, táo bạo. Chỗ đứng của người kỹ sư ra đời năm 1980, được tặng giải thưởng văn học đề tài công nhân, anh càng cố dồn sức sáng tạo lên trang viết. Vừa đi dọc hành lang có sẵn, anh vừa có những bước đi riêng của mình. Năm 1986 với Những cánh cửa đã mở; năm 1989 với Nếu được chết thay em thì đồng nghiệp và bạn đọc đã nhận ra một Nguyễn Khắc Phê sung sức, xông xáo và mới mẻ.

Anh không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà báo, một nhà quản lý có bản lĩnh. Làm biên tập viên rồi Phó Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương, anh mạnh dạn hơn trong việc đổi mới văn học nghệ thuật. Tháng 7/1988 trên Tạp chí Sông Hương số 32, anh cho in bài Người đàn ông 43 tuổi nói về mình (từ 1945 đến 1988 là 43 năm) của Trần Vàng Sao. Bài này bị chụp là “sặc mùi nói xấu chế độ.” Ban biên tập bị kiểm điểm lên, kiểm điểm xuống và Tạp chí bị đình bản 6 tháng. Trở lại làm Tổng Biên tập, anh vẫn tiếp tục đi theo tinh thần đổi mới. Được mấy số, được bạn đọc đón nhận nhưng khi cho in những bức họa đặc sắc của họa sĩ Bửu Chỉ và một số bài khác, tạp chí lại bị đình chỉ nửa năm nữa! Nguyễn Khắc Phê chuyển sang công tác Hội Văn nghệ.

Tin ở mình, tin ở chân lý nghệ thuật, thiết tha vì sự phát triển văn học, nhà văn Nguyễn Khắc Phê lặng lẽ mà sôi sục dồn nghĩ suy của mình vào tiểu thuyết. Tiếp tục đề tài mình tâm đắc nhất, anh quyết viết về những điều chưa phải trong sự đối xử với trí thức. Năm 1997 cuốn tiểu thuyết Mười ngày và cả mười năm ra đời. Nhân vật chính là một giáo sư tài năng và yêu nước, hết lòng đi theo cách mạng nhưng bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị coi là phản động, bị cầm tù, sống mòn mỏi nơm nớp trong sợ hãi. Tài năng và lòng yêu nước bị triệt tiêu. Người chỉ đạo gây nên chuyện này chính là giám đốc công an của tỉnh nọ. Cuốn sách vừa ra đời, một số vị trong ngành an ninh phản ứng gay gắt. Cuốn sách bị cấm phát hành! Trong chương 15 anh đã đưa nhiều thông tin quanh sự cố này, mang đến cho bạn đọc nhiều hiểu biết thú vị. (Năm 2008 cuốn sách được tái xuất với tên Những ngọn lửa xanh, được nhận Giải thưởng Cố đô lần thứ V (2003 - 2008) của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyễn Khắc Phê mừng: anh đã đúng). Không nản, anh mở rộng đề tài. Năm 2003 cuốn Thập giá giữa rừng sâu ra đời, vạch trần những tội ác hủy hoại môi trường sự sống, hủy hoại cả đạo lý. Nếu có cái gọi là dòng “văn học sinh thái” như một số nhà nghiên cứu nêu ra gần đây, thì Thập giá giữa rừng sâu là một tác phẩm xuất sắc thuộc lĩnh vực này. Đó là một lời nói tối hậu khẩn thiết cứu lấy con người và cả hành tinh xanh đang bị xâm phạm thô bạo.

Bao trùm các tác phẩm của Nguyễn Khắc Phê vẫn là đề tài về những người trí thức. Phần còn lại của cuốn tự truyện, anh dành hẳn một chương để nói về một cuốn sách lớn của đời anh: cuốn tiểu thuyết Biết đâu Địa ngục Thiên đường (Nxb. Hội Nhà văn, 2010, tái bản 2011). Từ khi cầm bút, anh đã có ý tưởng viết một cuốn sách về gia đình mình. Nhiều suy tư đắn đo, phải nhiều năm sau mới bắt đầu. Tính từ lúc khởi thảo đến khi hoàn thành phải ngót nghét hai mươi năm 1987 - 2007. Dù đã cắt bỏ nhiều nhưng sách vẫn dày trên 600 trang. Đây là một thực thể nghệ thuật hấp dẫn có những yếu tố tự truyện nhưng vẫn là tiểu thuyết. Với 12 trang trong cuốn Tự truyện này, Nguyễn Khắc Phê đã cho biết những trang nhật ký mang ý tưởng ban đầu, bao công việc bếp núc, bao sự giúp đỡ của người thân, của Hội Nhà văn. Cuốn sách nói về một gia đình trong một giai đoạn lịch sử với những vấn đề nhạy cảm như Cải cách ruộng đất và những vấn đề khác được bạn đọc nhiệt tình đón nhận, và được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng tiểu thuyết 2006 - 2010. Rất biết mình, biết người, trong chương này anh viết: “Chính là nguồn cảm hứng từ công cuộc Đổi mới với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng quyền sáng tạo, được nói rõ sự thật của người cầm bút với trách nhiệm một công dân, một nhà văn đã là động lực thôi thúc tôi viết nên Biết đâu Địa ngục Thiên đường”.

Trên đây chỉ là một số nét chính của cuốn Tự truyện này. Năm mươi năm cầm bút: 9 tiểu thuyết, 7 cuốn tản văn, bút ký, 6 cuốn nghiên cứu, phê bình, đoạt 14 giải thưởng trung ương và địa phương - một thành quả đáng nể. Bao chuyện văn, chuyện đời, có cả những mối tình thoảng qua, sự gặp gỡ hạnh phúc chấm dứt thời kỳ độc thân, chuyện vượt đạn bom đi học ở Trường viết văn trẻ, những trang viết nóng hổi sự sống, đặt ra những vấn đề gay cấn khác được đề cập đến trong cuốn sách này. Là lời tự kể của chính tác giả, có thêm nhiều, rất nhiều tư liệu từ những trang nhật ký, những bức thư, những bài báo, những văn bản hành chính, những kiến nghị, những ý kiến của bao đồng nghiệp và những bức ảnh minh họa đã làm cho tác phẩm rất chân thực và sinh động. Mỗi cuốn sách được nói tới, mỗi vấn đề được nêu ra, tác giả soi chiếu dưới nhiều cái nhìn khác nhau, được thuật lại bằng một giọng văn điềm tĩnh, dung dị và dí dỏm… Đó chính là những yếu tố quan trọng làm nên thành công của tác phẩm. Số phận không định trước, không phải là sách lịch sử mà nhiều sự kiện chân thật giàu chất lịch sử; không phải nghiên cứu lý luận mà đặt ra nhiều vấn đề đậm chất đối thoại có tính phản biện sâu sắc; không phải là một sáng tạo nghệ thuật văn chương nhưng có nhiều chi tiết chọn lọc, nhiều đoạn văn chứa đựng những suy nghĩ sâu sắc, giàu giá trị biểu cảm cuốn hút lòng người. Đằng sau những trang sách này, ta thấy rõ hơn cốt cách Nguyễn Khắc Phê - một công dân gương mẫu, một nhà văn dù không định trước được số phận của mình, nhưng biết vượt lên mọi cảnh ngộ, đứng thẳng làm người, đã sống và viết như một người chiến sĩ dũng cảm biết đặt Tổ quốc lên trên hết, luôn bảo vệ và đấu tranh cho lẽ phải, sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật sinh động giàu chất nhân văn. Dòng đời dữ dội vẫn chảy, nhà văn vẫn luôn vượt lên tình thế, luôn vượt lên chính mình để khẳng định cốt cách, phẩm giá và vai trò của người nghệ sĩ. Đó chính là cốt cách của những nhà văn đích thực.

Tác phẩm Số phận không định trước thêm một thành công mới của nhà văn Nguyễn Khắc Phê, một đóng góp đáng kể cho văn học nước nhà - nhất là trong loại sách tự truyện còn ít ỏi hiện nay.

N.T.Q
(TCSH338/04-2017)

.......................................................
(*) Số phận không định trước, Nguyễn Khắc Phê, Nxb. Hội Nhà văn, 2016.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.