NGUYỄN THẾ QUANG
Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.
Tự truyện nhưng không phải truyện của một vài người mà của cả một gia đình. Gia đình đó thật đặc biệt như cả một xã hội thu nhỏ: có cả một ông bố đệ nhất khoa bảng làm quan lớn cho Nam triều rồi vui vẻ làm cán bộ kháng chiến cùng một người mẹ nghiêm từ, cần mẫn, tảo tần; có một đàn con đông đúc - người thì đi tìm chữ nghĩa ở phương Tây, người đắm mình trong Nho giáo phương Đông, người thì hăm hở trên con đường của chủ nghĩa Mác, người thì lặng lẽ bước theo ánh sáng của Chúa Giê su theo cách của mình… Từ trong những đêm trường mất nước tủi nhục đến cơn gió mạnh của cách mạng tháng 8/1945 rồi kháng chiến trường kỳ, chịu bão tố của những cải cách, bị vùi dập trong đạn bom hủy diệt… họ bị đánh tung ra nhiều nơi, làm đủ mọi nghề, mỗi người mỗi vẻ nhưng dù hoàn cảnh nào cũng đứng vững, giữ được đạo nghĩa của người dân Việt, cũng vẫn tương thân tương kính với nhau. Đó là nét đẹp trọn vẹn hiếm thấy. Đó cũng là nét độc đáo nổi bật của cuốn tự truyện này.
Phần chủ yếu của cuốn sách tập trung nói về mình và hành trình cuộc đời tác giả. Số anh chẳng được thuận cảnh: đang tuổi thiếu niên đã chịu mang thân phận con địa chủ quan lại. Như một hạt cát bé nhỏ trong cơn lốc cải cách ruộng đất - năm 1954, mười lăm tuổi đầu, phải dắt người em gái mới mười tuổi ốm nhách, chạy trốn khỏi xứ Hương Sơn lọt vào đất Hà thành. Túi sách, báo nặng trĩu vai gầy, chạy khắp bến xe, phố chợ rao bán, kiếm đôi đồng xu nhỏ nhoi mà sống. Rồi đi làm “prê-xép-tơ” dạy chữ cho con nhà người, phải làm đủ mọi việc, ngồi bưng bát cơm rau phải nén nước mắt, nuốt cả tủi nhục vào lòng. Cố học xong trường Cao đẳng Giao thông, mang lý lịch con địa chủ, anh lặng lẽ chấp hành mọi sự sắp đặt của tổ chức, hết lên cực Bắc, về đồng bằng, rồi vào tuyến lửa khu IV. Đúng là Số phận không định trước, anh bị cuốn theo giòng chảy cuộc đời!
Không chịu làm một “cọng rêu dưới đáy ao” (hình ảnh cũng là tên một cuốn sách về thân phận con địa chủ của nhà văn Võ Văn Trực), Nguyễn Khắc Phê từng bước, từng bước lặng lẽ vượt lên cảnh ngộ bất hạnh của mình. Làm việc hết mình cùng bao đồng đội trên những cung đường đạn bom ác liệt, giữa những phút yên tĩnh hiếm hoi anh cặm cụi viết. Những bài báo, những bút ký đầu tiên ra đời. Tập ký sự Vì sự sống con đường xuất bản năm 1968 là thành quả đầu tay. Bao lần may mắn vượt qua cái chết, anh chỉ biết làm việc và say viết: viết báo, viết bút ký, truyện ngắn và quyết viết cả tiểu thuyết. Rồi tình yêu giản dị mà dũng cảm của cô giáo Quảng Bình chắp thêm sức mạnh cho anh. Những trang tiểu thuyết đầu tiên được hình thành. Trong năm 1976 anh cho ra mắt Đường qua làng Hạ và Đường giáp mặt trận. Dòng đời trôi chảy “thuyền xô sóng dậy/ sóng đẩy thuyền lên,” anh được điều về Hội Văn nghệ Quảng Bình, làm công tác biên tập tạp chí Văn nghệ của tỉnh. Cuối năm 1976 cơn gió nhập tỉnh đưa anh về Huế, làm việc ở Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị Thiên. Sống giữa bao bậc đàn anh, đàn chị trên văn đàn khi tiếng súng đã ngừng nhưng anh hiểu cuộc chiến trên mặt trận văn chương không dễ dàng chút nào. Lặng lẽ khiêm nhường, đem hết sức mình trong công tác biên tập báo chí vừa dồn sức cho sáng tạo văn chương, anh vừa chấp nhận đi theo cái chung, vừa quyết tạo những bước đi riêng vững chắc cho riêng mình. Vẫn gắn với những đồng đội công nhân anh hùng, khẳng định vẻ đẹp của họ, anh bắt tay tái tạo, xây dựng hình ảnh lớp thanh niên trí thức trong cuộc chiến của dân tộc. Trong khi nhiều nhà văn đi theo lời chỉ dẫn: miêu tả cho hay, cho hùng hồn vẻ đẹp của Công Nông Binh thì sự lựa chọn ấy của anh là một sự mới mẻ, táo bạo. Chỗ đứng của người kỹ sư ra đời năm 1980, được tặng giải thưởng văn học đề tài công nhân, anh càng cố dồn sức sáng tạo lên trang viết. Vừa đi dọc hành lang có sẵn, anh vừa có những bước đi riêng của mình. Năm 1986 với Những cánh cửa đã mở; năm 1989 với Nếu được chết thay em thì đồng nghiệp và bạn đọc đã nhận ra một Nguyễn Khắc Phê sung sức, xông xáo và mới mẻ.
Anh không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà báo, một nhà quản lý có bản lĩnh. Làm biên tập viên rồi Phó Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương, anh mạnh dạn hơn trong việc đổi mới văn học nghệ thuật. Tháng 7/1988 trên Tạp chí Sông Hương số 32, anh cho in bài Người đàn ông 43 tuổi nói về mình (từ 1945 đến 1988 là 43 năm) của Trần Vàng Sao. Bài này bị chụp là “sặc mùi nói xấu chế độ.” Ban biên tập bị kiểm điểm lên, kiểm điểm xuống và Tạp chí bị đình bản 6 tháng. Trở lại làm Tổng Biên tập, anh vẫn tiếp tục đi theo tinh thần đổi mới. Được mấy số, được bạn đọc đón nhận nhưng khi cho in những bức họa đặc sắc của họa sĩ Bửu Chỉ và một số bài khác, tạp chí lại bị đình chỉ nửa năm nữa! Nguyễn Khắc Phê chuyển sang công tác Hội Văn nghệ.
Tin ở mình, tin ở chân lý nghệ thuật, thiết tha vì sự phát triển văn học, nhà văn Nguyễn Khắc Phê lặng lẽ mà sôi sục dồn nghĩ suy của mình vào tiểu thuyết. Tiếp tục đề tài mình tâm đắc nhất, anh quyết viết về những điều chưa phải trong sự đối xử với trí thức. Năm 1997 cuốn tiểu thuyết Mười ngày và cả mười năm ra đời. Nhân vật chính là một giáo sư tài năng và yêu nước, hết lòng đi theo cách mạng nhưng bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị coi là phản động, bị cầm tù, sống mòn mỏi nơm nớp trong sợ hãi. Tài năng và lòng yêu nước bị triệt tiêu. Người chỉ đạo gây nên chuyện này chính là giám đốc công an của tỉnh nọ. Cuốn sách vừa ra đời, một số vị trong ngành an ninh phản ứng gay gắt. Cuốn sách bị cấm phát hành! Trong chương 15 anh đã đưa nhiều thông tin quanh sự cố này, mang đến cho bạn đọc nhiều hiểu biết thú vị. (Năm 2008 cuốn sách được tái xuất với tên Những ngọn lửa xanh, được nhận Giải thưởng Cố đô lần thứ V (2003 - 2008) của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyễn Khắc Phê mừng: anh đã đúng). Không nản, anh mở rộng đề tài. Năm 2003 cuốn Thập giá giữa rừng sâu ra đời, vạch trần những tội ác hủy hoại môi trường sự sống, hủy hoại cả đạo lý. Nếu có cái gọi là dòng “văn học sinh thái” như một số nhà nghiên cứu nêu ra gần đây, thì Thập giá giữa rừng sâu là một tác phẩm xuất sắc thuộc lĩnh vực này. Đó là một lời nói tối hậu khẩn thiết cứu lấy con người và cả hành tinh xanh đang bị xâm phạm thô bạo.
Bao trùm các tác phẩm của Nguyễn Khắc Phê vẫn là đề tài về những người trí thức. Phần còn lại của cuốn tự truyện, anh dành hẳn một chương để nói về một cuốn sách lớn của đời anh: cuốn tiểu thuyết Biết đâu Địa ngục Thiên đường (Nxb. Hội Nhà văn, 2010, tái bản 2011). Từ khi cầm bút, anh đã có ý tưởng viết một cuốn sách về gia đình mình. Nhiều suy tư đắn đo, phải nhiều năm sau mới bắt đầu. Tính từ lúc khởi thảo đến khi hoàn thành phải ngót nghét hai mươi năm 1987 - 2007. Dù đã cắt bỏ nhiều nhưng sách vẫn dày trên 600 trang. Đây là một thực thể nghệ thuật hấp dẫn có những yếu tố tự truyện nhưng vẫn là tiểu thuyết. Với 12 trang trong cuốn Tự truyện này, Nguyễn Khắc Phê đã cho biết những trang nhật ký mang ý tưởng ban đầu, bao công việc bếp núc, bao sự giúp đỡ của người thân, của Hội Nhà văn. Cuốn sách nói về một gia đình trong một giai đoạn lịch sử với những vấn đề nhạy cảm như Cải cách ruộng đất và những vấn đề khác được bạn đọc nhiệt tình đón nhận, và được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng tiểu thuyết 2006 - 2010. Rất biết mình, biết người, trong chương này anh viết: “Chính là nguồn cảm hứng từ công cuộc Đổi mới với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng quyền sáng tạo, được nói rõ sự thật của người cầm bút với trách nhiệm một công dân, một nhà văn đã là động lực thôi thúc tôi viết nên Biết đâu Địa ngục Thiên đường”.
Trên đây chỉ là một số nét chính của cuốn Tự truyện này. Năm mươi năm cầm bút: 9 tiểu thuyết, 7 cuốn tản văn, bút ký, 6 cuốn nghiên cứu, phê bình, đoạt 14 giải thưởng trung ương và địa phương - một thành quả đáng nể. Bao chuyện văn, chuyện đời, có cả những mối tình thoảng qua, sự gặp gỡ hạnh phúc chấm dứt thời kỳ độc thân, chuyện vượt đạn bom đi học ở Trường viết văn trẻ, những trang viết nóng hổi sự sống, đặt ra những vấn đề gay cấn khác được đề cập đến trong cuốn sách này. Là lời tự kể của chính tác giả, có thêm nhiều, rất nhiều tư liệu từ những trang nhật ký, những bức thư, những bài báo, những văn bản hành chính, những kiến nghị, những ý kiến của bao đồng nghiệp và những bức ảnh minh họa đã làm cho tác phẩm rất chân thực và sinh động. Mỗi cuốn sách được nói tới, mỗi vấn đề được nêu ra, tác giả soi chiếu dưới nhiều cái nhìn khác nhau, được thuật lại bằng một giọng văn điềm tĩnh, dung dị và dí dỏm… Đó chính là những yếu tố quan trọng làm nên thành công của tác phẩm. Số phận không định trước, không phải là sách lịch sử mà nhiều sự kiện chân thật giàu chất lịch sử; không phải nghiên cứu lý luận mà đặt ra nhiều vấn đề đậm chất đối thoại có tính phản biện sâu sắc; không phải là một sáng tạo nghệ thuật văn chương nhưng có nhiều chi tiết chọn lọc, nhiều đoạn văn chứa đựng những suy nghĩ sâu sắc, giàu giá trị biểu cảm cuốn hút lòng người. Đằng sau những trang sách này, ta thấy rõ hơn cốt cách Nguyễn Khắc Phê - một công dân gương mẫu, một nhà văn dù không định trước được số phận của mình, nhưng biết vượt lên mọi cảnh ngộ, đứng thẳng làm người, đã sống và viết như một người chiến sĩ dũng cảm biết đặt Tổ quốc lên trên hết, luôn bảo vệ và đấu tranh cho lẽ phải, sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật sinh động giàu chất nhân văn. Dòng đời dữ dội vẫn chảy, nhà văn vẫn luôn vượt lên tình thế, luôn vượt lên chính mình để khẳng định cốt cách, phẩm giá và vai trò của người nghệ sĩ. Đó chính là cốt cách của những nhà văn đích thực.
Tác phẩm Số phận không định trước thêm một thành công mới của nhà văn Nguyễn Khắc Phê, một đóng góp đáng kể cho văn học nước nhà - nhất là trong loại sách tự truyện còn ít ỏi hiện nay.
N.T.Q
(TCSH338/04-2017)
.......................................................
(*) Số phận không định trước, Nguyễn Khắc Phê, Nxb. Hội Nhà văn, 2016.
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!