Nassar Ibrahim là nhà văn, nhà báo người Palestine. Ông còn là nhà hoạt động xã hội, nguyên Tổng Biên tập báo El Hadaf tại Palestine. Truyện ngắn dưới đây được in lần đầu bằng tiếng Ả Rập trong tạp chí Masharef 28, số mùa thu 2005, được Taline Voskeritchian dịch sang tiếng Anh, in trong tạp chí Wordswithoutborders số tháng 11/2006.
NASSAR IBRAHIM
Đôi giày
Có thể đây chỉ là một chuyện đùa sắc sảo, nhưng nó đã trở thành một truyện - truyện dành cho mọi người.
Không ai biết vì sao Nizar kiên quyết phải đi Ramallah(1). Hoàn cảnh không thuận tiện - những trạm kiểm soát quân đội, những tình huống bẽ bàng, hành trình đi bộ mệt lử qua những ngọn đồi và qua những tường chắn làm bằng đất. Dù sao đi nữa, với lòng quyết tâm của một công nhân lao động, Nizar nhất định đi. Có một việc phải được giải quyết ở Ramallah. Anh phải đi. “Tôi sẽ chịu đựng được vất vả của hành trình… chúng ta đã quen với vất vả rồi… vất vả đã trở thành bình thường đối với chúng ta. Người Israel không nhận thấy rằng họ đã quản lý để làm cho mọi chuyện không bình thường trong cuộc sống chúng ta hóa ra bình thường… chúng ta còn có thể làm gì? Ngồi cho tới lúc chết à, đợi cái gì?”
Anh đón xe và ra đi. Anh phải đến được Ramallah, cách này hay cách khác.
Chiếc xe chạy qua vùng đồi, hết một ki lô mét đường nhựa lại đến một ki lô mét đường đất. Nizar hướng mắt về phía vùng đồi. Người ta luôn tìm ra một con đường vòng qua các trạm kiểm soát. Những con đường phụ đã làm họ trở thành những chuyên gia vượt trạm kiểm soát, vượt những mệnh lệnh, sự kiệt sức, sự tồi tệ. Họ giống như một bầy kiến luôn tìm được lối đi, một giải pháp, khi mà tổ và lối đi của chúng bị phá hủy, chúng đủ sức để vượt qua, thích ứng và chịu đựng. Khi đó, bầy kiến đào xới bằng miệng và bằng những cái chân nhỏ bé, mang từng hạt đất đến những điểm xa. Chúng mở một lỗ nhỏ, nhưng như thế là đủ, chúng sẽ tiếp tục trên con đường của chúng như không có gì xảy ra. Có thể sau một phút, vì vô tình hay hữu ý, một trong số chúng sẽ làm hỏng cái lỗ. Bầy kiến dừng lại, khích động ngọ nguậy râu của chúng, xem xét tình thế, tập trung lại chung quanh lỗ và rồi lại bùng ra và bắt đầu làm việc.
Trên những con đường đất, người ta giống như những khối đen nhỏ, đi thành hàng, những dòng người yếu đuối này, dừng lại, bước tới và rồi lùi lại. Họ sẽ leo qua bất cứ thứ gì để đến mục tiêu của họ, họ đi bộ như thể bước qua địa ngục của Dante. Trên con đường thẳng, họ tụ tập lại, họ leo, họ nhảy qua những rào chắn bằng đất. Sau một giờ, những chiếc xe ủi đất có thể phá hủy các lối đi của họ bằng đá, đất, và bằng những khối xi măng. Những khối đen dừng lại, nhìn quanh, tự quay lại, với sự chịu đựng, với nước mắt, mồ hôi, nhưng rồi vẫn tìm ra một lối đi mới, tạo ra lối đi mới, khám phá ra nó và tiếp tục lên đường với sự ngoan cường bất tận của họ.
Nizar di chuyển như những người khác. Hăng tiết, anh leo lên những con đường của kiến, nguyền rủa. Chân anh nhức, anh té xuống, đứng dậy, nắm tay một ông già và cùng nhau họ tiếp tục vượt đồi. Anh phải đến Ramallah. Ngay lúc đó, có thể anh đã quên lý do tại sao anh muốn đến Ramallah. Không quan trọng. Sự đến được đó tự nó là mục đích của anh - năng lực ngoan cường xác quyết với anh rằng chỉ đến được đó cũng là một cách chiến thắng, và như vậy là đủ.
Thời gian trôi qua chậm, nóng và bụi: những rào chắn, súng, lính, kiểm tra thẻ chứng minh, sự chờ đợi dai dẳng, những lời mắng chửi và những tình huống bẽ bàng. Mọi thứ này trộn lẫn với mọi thứ khác, sự tiến tới và sự thoái lui cùng là sự đo lường sức chịu đựng như nhau. Cứ thế, anh tiến tới. Không phải là sự đến được, không phải là sự vượt qua gian khổ được, thách thức việc bị bẻ gãy không là một sự bình đẳng rõ ràng, đơn giản hay sao? Cả một quốc gia tìm những con đường phù hợp, bước qua luận lý và lý do để duy trì cho chính nó điều mà luận lý nói. Kiên trì Tồn tại trước hết, hay là chết.
Miên man với suy nghĩ của mình, Nizar tiếp tục đi trong niềm hy vọng. Mỗi ngọn đồi là một trở ngại anh phải vượt qua, ý nghĩ đó nuôi dưỡng sự kiên định của anh. Mỗi tiếng cười là một cách phản kháng, như thể anh là người vui vẻ nhất trên cõi đời này. Nhưng tiếng cười sảng khoái nhất, là tiếng cười khi anh cảm thấy thực sự vui vẻ.
Anh tiếp tục luồn lách, xoay xở, từ xe này chuyển sang xe khác, từ đồi đến núi, từ trạm kiểm soát này đến trạm kiểm soát khác. Anh tiến tới, con đường ngoằn nghèo, chịu đựng, cho tới khi anh thấy mình mệt nhoài trên ghế của chiếc xe, không biết đến những gì xảy ra chung quanh.
Sáu tiếng đồng hồ từ lúc trời rạng sáng không phải là khoảng thời gian dài, anh nghĩ và mỉm cười. Có nhiều người mất mười tiếng đồng hồ để đến nơi họ muốn đến, để đạt tới cái họ muốn đạt tới. Anh đến gần trạm kiểm soát cuối cùng ở phía trước trại tị nạn Qalandia. Chỉ thêm một bước nữa là anh thắng cuộc chiến.
Một hàng xe dài đậu dọc trên con đường nhựa. Chiếc xe chậm lại và đậu nối đuôi hàng xe. Anh mở cửa bước xuống, nhìn xung quanh. Cả hai bên đường, những con kiến đang di chuyển giữa những chiếc xe, trong bụi bậm, những người phụ nữ, trẻ con, thanh niên và ngừơi già, người bán hàng, sinh viên, những con lừa, tất cả di chuyển lui và tới, những giọng nói, tiếng la, tiếng thì thào, lời xin xỏ - một phức hợp người, của đau đớn và của đất, của sự khẳng định và của bụi, của cuộc đời.
Anh rời xe và bước tới, tham gia vào dòng người tiến lên. Một chiếc xe đen, sạch chạy qua, tạo nên một quầng bụi, mặc cho những tiếng chửi vọng theo.
Nắng đun nóng đầu người, những dòng mồ hôi muối chảy xuống cổ họ, làm mờ mắt họ. Nhưng bất chấp, không có lựa chọn nào ngoài sự tiếp tục.
Nizar kiên quyết bước đi, tai anh nghe những câu nói rời rạc: “Họ không cho ai đi qua ngoài những ai được giấy phép của cơ quan dân chính”.
“Tôi phải đến Ramallah, có phép hay không phép tôi cũng không quay lại”.
Anh đến gần trạm kiểm soát và đứng trước dãy hàng rào xi măng. Có mấy người lính ở gần đó, một số chưa tới mười tám tuổi, còn chưa mọc ria. Phía trước họ là hàng trăm người đàn ông đàn bà, đang chờ đợi, hy vọng, đang nói ngọt với những người lính bằng mọi khả năng của họ để mong được cho đi qua. Nhưng chẳng có ích gì: sự năn nỉ, khóc lóc, tuổi tác, bệnh hoạn, vào đại học, tất cả đều không được… “Không được, không”.
Áp lực và sự đông đúc càng tăng. Một trong những người lính ném một quả bom hơi, gần như không nghe ra tiếng vì nổ giữa đám đông. Người ta chạy, ho, lả người, nhưng không được gì. Không là không.
Đám đông lại bắt đầu tụ tập nhích lên. Nizar tiến tới trước. Anh đứng trước dãy hàng rào bê tông, rồi tiến lên qua lối đi hẹp.
- Nè anh kia, đi đâu? Dừng lại.
- Tôi muốn qua.
- Có giấy phép không?
- Không có giấy phép.
- Vậy quay lại. Cấm qua.
- Nhưng anh à, tôi phải đi qua. Tôi đến từ xa. Tôi có việc quan trọng phải giải quyết ở bên đó.
- Tôi không biết. Cấm qua. Quay lại không tôi bắn.
- Sao lại bắn? Tôi không có vũ khí.
- Tôi nói không, cấm qua.
Nizar do dự. Anh ngoái đầu nhìn đám đông, rồi tiếp tục:
- Làm ơn cho qua. Nếu anh muốn giữ chứng minh thư cho tới khi tôi trở lại, đây, anh cầm lấy.
- Tôi không cần chứng minh thư. Lệnh cấm không được qua. Tôi không nói thêm nữa.
- Sao vậy? Anh muốn gì ở tôi? Tôi phải đến Ramallah.
Người lính nhìn ra xa rồi quay lại nhìn mặt Nizar. Đây là một dịp để đùa chơi, một trò đùa. Người lính hỏi thẻ chứng minh của Nizar. Anh ta nhìn thẻ, rồi bảo Nizar:
- Nghe nè, tôi sẽ cho anh qua nếu anh gỡ nón ra.
Nizar đăm đăm nhìn người lính, rồi gỡ nón ra khỏi đầu và ném ra xa.
- Giờ tôi qua được chưa?
Người lính cười to. Anh ta đưa mắt nhìn cái nón văng vào đám đông và biến mất.
- Chưa xong. Còn những điều kiện khác nếu anh muốn qua.
Nizar cảm thấy anh đang phá vỡ được rào cản ban đầu và sự từ chối thẳng thừng. Anh tìm cách thương lượng:
- Vâng, các anh muốn gì nữa? - Anh hỏi người lính.
- Anh phải cởi giày gởi lại đây và sẽ lấy lại khi quay về.
Nizar nhìn người lính. Đây là trò đùa hay anh ta nói nghiêm chỉnh?
- Sao được! Làm sao tôi đi bộ chân không trong cái nóng này, thủy tinh vỡ, cát bụi…
- Tốt, anh không bằng lòng? Quay lại nơi anh xuất phát.
Nizar cúi đầu và hơi nhìn ngoái lại. Anh đưa mắt lướt qua đám đông đứng trong nắng và bụi. Trong khoảnh khắc, sức chịu đựng lại trỗi dậy.
- Tốt, tôi chấp nhận. - Anh nói rành rẽ.
Anh cúi xuống, cởi giày và đặt chúng ngay trên hàng rào chắn bê tông, trước mặt người lính bàng hoàng, và không cần đợi được phép anh tiến bước.
- Ê, đợi đã, điều kiện chưa hết.
Nizar bước như trong cơn mê. Con đường đất nóng dưới ánh nắng.
- Trước khi anh đi, tôi muốn anh đi lấy cho tôi một ly trà.
Nizar nhìn người lính, nhìn chân mình. Những giọt mồ hôi chảy xuống trên gò má anh, hơi dừng lại một chút ở cằm trước khi rớt giọt xuống ngấm trong đất nóng.
Anh bước đi chầm chậm rồi khuất dạng. Năm phút sau anh trở lại với một ly trà lớn. Anh đưa ly trà cho người lính. Người lính nhấp trà, cười cợt với những người lính khác.
Nizar rời khỏi trạm kiểm soát, sau cùng anh đã vượt qua trạm và đang trên đường tới Ramallah. Điều quan trọng là anh đã vượt qua.
(Đến đây, theo lô gích của thể loại truyện kể, câu chuyện có thể kết thúc. Nhưng như thường lệ một người Palestine điển hình cứ tiếp tục can thiệp vào truyện để làm cho truyện tiếp tục theo một kết cục khác).
Sau nhiều giờ, Nizar quay lại. Trước khi đến trạm kiểm soát, anh cởi đôi giày mới. Anh cất giày vào túi nhựa. Thỏa thuận là anh sẽ đi chân không trở lại.
Anh đi đến trạm kiểm soát, tới chỗ người lính.
- Ê, anh thấy là tôi trở lại đấy. Giày tôi đâu?
Người lính phá ra cười, tay anh ta chỉ đôi giày để kế bên tảng bê tông vuông.
Nizar lại chỗ đôi giày. Anh đút chân phải vào giày và cảm thấy có một chất lỏng nóng. Giật mình, anh lùi lại. Anh cầm chiếc giày và nhìn người lính vừa được bốn người lính khác nhập bọn và tất cả đều cười.
Nizar lật chiếc giày lại, một chất lỏng nhầy, vàng đổ ra. Anh lắc chiếc giày nhiều lần. Anh cố lau khô giày bằng tờ báo, những trang đầy tin tức và hình ảnh các hội nghị thượng đỉnh… Anh bình tĩnh đứng dậy, đút chân vào giày, và đi qua trạm kiểm soát. Ba bước. Chợt anh dừng lại đột ngột. Anh quay lại và đi trở lại, đến gần những hàng rào bê tông.
- Anh muốn gì? - Người lính hỏi anh, cười và ngạc nhiên.
Nizar đứng yên lặng. Anh nhìn đám đông và đoàn xe. Anh cởi giày ra và để chúng lên trên hàng rào xi măng. Anh nhìn thẳng vào mắt người lính. Anh nói rành rẽ:
- Điều cuối cùng tôi muốn nói với anh. Chừng nào anh còn tiểu vào giày của chúng tôi và chúng tôi còn tiểu vào ly trà của anh, sẽ không có hòa bình giữa chúng ta. Anh hiểu không?
Nizar quay nhanh trở lại. Anh biến vào đám đông, chân trần.
Võ Hoàng Minh dịch
(Nguồn: http://www.wordswithoutborders.org)
(TCSH359/01-2019)
...........................................
(1) Ramallah là một thành phố của người Palestine ở quãng giữa Bờ Tây giáp với al-Bireh có dân số gần 25.500 người. Ramallah cách Jerusalem 10 km về hướng bắc hiện là thủ đô hành chính của chính quyền Palestine.
Stephen King (1947, Maine, Mỹ), nhà văn được xem là có công phục hồi thể loại truyện kinh dị trong thế kỷ 20.
Đônchô Sônchép - nhà văn Bungari (sinh năm 1933). Tốt nghiệp khoa địa chất trường ĐHTH Xôphia. Làm nghề địa chất hơn 10 năm.
A. J. MCKENNA (Anh)
Đó là sinh nhật của Jim Brennan. Ông thức giấc vào buổi sáng tháng Tám ẩm ướt này, giật mình bởi tiếng chim hót vang khắp khu vườn. Đầu óc rối bời, ông cứ nằm mãi, gắn ánh mắt vô hồn vào mảng giấy hoa dán tường đã bạc phếch, đối diện chiếc giường bừa bộn của ông, nơi mặt trời sưng sỉa hắt ánh hồng lên.
LGT: Tiểu thuyết Đừng khóc (Sans pleurer) của nữ văn sĩ Pháp Lydie Salvayre vừa vinh dự được nhận giải thưởng Goncourt năm 2014, giải thưởng văn chương cao quí nhất nước Pháp nói về cuộc nội chiến đẫm máu Tây Ban Nha (1936 - 1939) thế kỷ trước với những hệ lụy nặng nề của nó.
LTS: Ivan Ptôrôvich Samiakin, tác giả những tiểu thuyết nổi tiếng "Giây phút tốt lành", "Dòng chảy xiết", "Những trái tim trên lòng bàn tay", "Mùa đông đầy tuyết", "Tôi mang theo nỗi đau của em", "Pêtirôgôrút - Bêrextơ" cùng nhiều truyện ngắn, kịch, kịch bản phim.
Edwidge Danticat ra đời tại thành phố Port-au-Prince, Haiti năm 1969. Đậu Cử nhân Văn Học Pháp tại Barnard College, và Thạc sĩ Nghệ Thuật tại Brown University, cô hiện đang giảng dạy tại New York University (NYU).
LTS: John Steinbeck ra đời vào ngày 27 tháng 2 năm 1902 tại Salinas thuộc tiểu bang California. Các tác phẩm của văn hào John Steinbeck miêu tả cuộc sống của tầng lớp dân nghèo, phản ánh bất công trong xã hội, với nhiều dấu hỏi trước cảnh sống, với lối viết hấp dẫn.
VLADIMIR NABOKOV
Vài năm trước, bác sĩ Fricke có đưa Lloyd và tôi một câu hỏi mà giờ đây tôi sẽ thử trả lời.
ANAR (Azerbaijan)
Hôm qua số điện thoại của em đã chết. Không phải chỉ con người mới chết. Những con số điện thoại cũng có chết đấy.
KENELKES (Anh)
Khi David bước ra cửa, cậu hơi bị hoa mắt bởi ánh sáng mặt trời trắng lóa, và theo bản năng cậu chới với chụp lấy tay cha.
L.T.S. Sylvain Bemba sinh năm 1936 tại Congo, ông từng giữ chức Tổng biên tập của Thông tấn xã Congo Brazaville trong nhiều năm.
Truyện ngắn Phòng tối dưới đây được chiếm giải nhất trong cuộc thi truyện ngắn Châu Phi năm 1964, do tạp chí Preuves tổ chức và được in lại trong tuyển tập Văn học châu Phi, ấn hành 1968 tại Bỉ.
LTS: Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, tác gia tiêu biểu của phái tiên phong, là một hiện tượng độc đáo trên văn đàn Trung Quốc đương đại. Được phương Tây đánh giá là nhà văn Trung Quốc cách tân nhất hiện nay, tác phẩm được đưa vào giáo trình của các trường đại học nổi tiếng trên thế giới như đại học Harvard, đại học Tokyo… nhưng bản thân Tàn Tuyết chưa từng học lên trung học.
LTS: Yasunari Kawabata (1899-1972), là nhà văn Nhật lỗi lạc nhất của thế kỷ XX, giải Nobel năm 1968. Tác giả của nhiều thiên kiệt tác đậm đà chất phương Đông mà cả thế giới đều ngưỡng mộ: Ngàn cánh hạc, Vũ nữ Izu, Xứ tuyết, Tiếng núi rền, Cố đô…
Dino Buzzati sinh năm 1906 tại Belluno, mất năm 1972 ở Milano (Italia). Trước khi viết văn, ông là họa sĩ, nhạc sĩ và nhà báo, từng là phóng viên chiến trường và phụ trách mục phê bình nghệ thuật cho Corriere della Sera, một nhật báo quan trọng nhất nước Ý.
TÔN THẮNG LỢI (Trung Hoa)
Nền xi măng phòng làm việc đang còn những vệt ẩm của chiếc giẻ cọ sàn. Như thường lệ mọi buổi sáng, tôi tự dọn dẹp lấy phòng làm việc. Một lối sống giản dị, có phần khắc khổ. Mà không cần phải phô trương, cuộc cách mạng văn hóa đã kết thúc.
RAPHAEN XÔLE (Cu Ba)
Khi con người mở mắt ra (nỗi sợ hãi đã buộc chúng khép lại), thì việc đầu tiên mà anh ta trông thấy là cái hố có đường kính hai mét và một vòng tròn nhỏ màu xanh nằm cao chừng mười mét ở phía trên.
ALICE MUNRO
LGT: Alice Munro sinh ngày 10 tháng bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo.
LGT: Romain Gary tên thật là Romain Kacew, sinh năm 1914 tại Moskva và được nuôi dưỡng bởi một người mẹ đã đặt rất nhiều kỳ vọng nơi con trai mình. Năm 14 tuổi, ông theo mẹ đến Pháp và định cư tại Nice.
IURI BONDAREP
Lần đầu tiên, chúng tôi nhìn thấy cô ta ở cạnh bàn bóng bàn ở sân hành lang nhà an dưỡng. Cô mặc chiếc áo len dài tay màu xanh, chiếc váy thật thẳng nếp, mái tóc màu sáng được cắt ngắn, và cứ mỗi lần vụt rơkét cô lại hất mạnh những sợi tóc vương khỏi trán. Những lúc như vậy, đôi mắt nâu đen của cô lại mỉm cười.
O.HENRY
Rất lâu trước khi bụng dạ lờ đờ của anh nhà quê cảm nhận được hơi xuân thì tay thị dân ấy đã biết rằng bà chúa xanh màu cỏ ấy đã lên ngôi.