(Phỏng vấn nhà nghiên cứu phê bình văn học HOÀNG NGỌC HIẾN)
GS Hoàng Ngọc Hiến - Ảnh: internet
P.V: Bạn đọc có những sự đánh giá rất khác nhau về những bài phê bình của anh, nhưng hầu như mọi người nhất trí văn phê bình của anh sáng sủa. Hẳn là anh đã có một quá trình...
H.N.H: Trước cách mạng, tức là cho đến năm mười lăm tuổi, tôi học ở những trường dạy bằng tiếng Pháp. Trong gia đình tôi có hai tủ sách. Tủ sách tiếng Pháp là của bố tôi, một giáo viên tiểu học. Bố tôi - ông tin rằng chỉ tiếng Pháp mới là chìa khóa đi vào tri thức và văn hóa - chỉ cho phép chúng tôi đọc sách tiếng Pháp. Văn phê bình của tôi được nhiều bạn đọc khen là sáng sủa. Có thể là tôi đã tiếp nhận được sự "sáng sủa Pháp" la clarté franҫaise từ tủ sách của bố tôi. Tủ sách tiếng Việt là của mẹ tôi và chị tôi. Những lúc bố tôi đi vắng, tôi đến tủ sách tiếng Việt tranh thủ đọc ngấu nghiến tất cả những gì đọc được: Ngày nay, Tao Đàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, văn xuôi Tự Lực Văn Đoàn, tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, truyện của Nguyễn Tuân, Nam Cao... Tủ sách của mẹ và chị tôi đã truyền cho tôi tình yêu tiếng Việt và văn học Việt.
P.V: Thời học phổ thông anh đã có thiên hướng văn chương?
H.N.H: Những năm 47-49, đương học Trung học chuyên khoa (một thứ cấp III có phân ban) tôi chuyển từ ban Toán - Lý sang ban Văn - Sinh ngữ. Thời này tôi đọc được hai cuốn sách quan trọng: Cuốn Chủ nghĩa Mác và những vấn đề văn hóa Việt Nam của Trường Chinh thức tỉnh ở tôi một điều: làm văn học nghệ thuật không thể không quan tâm đến vận mệnh của dân tộc và sự tiến bộ xã hội. Cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh thuyết phục tôi rằng phê bình văn học đích thị là văn chương, câu văn phê bình cũng phải làm giàu chất thơ và có âm điệu, tiết tấu.
P.V: Một thời gian dài, công chúng chỉ biết anh như là chuyên gia về Maiacốpxki.
H.N.H: Đầu những năm 50, văn học Xô-viết đến Việt Nam trước hết bằng những bản dịch tiếng Pháp. Tình cờ tôi đọc được cuốn Vers et proses của Elsa Triolet giới thiệu Maiacốpxki bằng tiếng Pháp. Cuốn sách tuyệt vời này ngay lập tức làm tôi say mê Maiacốpxki (tôi cho rằng làm cho độc giả mê các nhà văn nhà thơ là một việc hết sức quan trọng của phê bình văn học). Tôi cứ ao ước làm sao viết được một cuốn sách giới thiệu Maiacốpxki với công chúng Việt Nam. Mãi đến năm 1976 tôi mới thực hiện được điều này (Maiacốpxki, con người, cuộc đời và thơ. Nxb, Đại học). Đến năm 1985 thì tôi dịch xong và công bố hầu hết những tác phẩm chính của Maiacốpxki. Làm thơ ca ngợi cách mạng Maiacốpxki luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại. Trong một bài thơ gửi Trung ương Đảng việt năm 1922 ông xem quả đất chỉ là một chấm tròn và trên "chấm tròn quả đất" ông nhìn thấy "lòng khòng một dấu hỏi khổng lồ". Ngày nay "dấu hỏi khổng lồ" đương trở thành một ám ảnh của cả loài người.
P.V: Anh giảng dạy lâu năm ở đại học. Nếu như có thể nói đến một giới "phê bình đại học", anh có thuộc về giới này không?
H.N.H: Năm 1957 đương dạy văn ở một trường phổ thông tôi nhận được giấy của Bộ Giáo dục điều động về làm trợ lý cho giáo sư Hoàng Xuân Nhị tại Khoa Văn Đại học tổng hợp Hà Nội. Thầy Hoàng Xuân Nhị đã "rèn" cho tôi những quy củ cơ bản của nghiên cứu văn học. Thời gian này tôi đi nghe những bài giảng về lịch sử tư tưởng của GS. Trần Đức Thảo. Lại thêm một say mê mới: triết học Hêghel. Tư duy triết học Héghel đã góp phần nâng cao tính khái niệm những bài viết của tôi. Từ năm 1979 tôi là chủ nhiệm bộ môn Lý thuyết và thực hành sáng tác các thể loại văn học. "Phê bình đại học” ít nhiều mang tính chất kinh viện. Sinh viên trường Nguyễn Du là những người viết trẻ, ở đây hơn ở đâu hết, mọi thứ "kinh viện" đều bị "bật" ra.
P.V: Xin cho biết về chuyến du học Liên Xô của anh.
H.N.H: Năm 1959 tôi sang Liên Xô học nghiên cứu sinh ở Đại học tổng hợp Maxkva. Luận án của tôi về Maiacốpxki được bảo vệ năm 1964. Giáo sư Đuvakin - người hướng dẫn tôi làm luận án - là một người thực sự say mê Maiacốpxki và một điều hết sức đáng quý đối với tôi là ông đã cho tôi thấy rằng trong nghiên cứu và phê bình văn học tình yêu và sự say mê cao hơn sự uyên bác, trong lĩnh vực này mà không có tình yêu thì càng uyên bác càng "dởm". Một điều may mắn là bản luận án của tôi được nhà văn Andrây Ximiavxki đọc và ông đã viết những lời nhận xét tốt đẹp.
P.V: Khoảng mươi năm gần đây, công chúng mới để ý đến tiếng nói của anh về văn học Việt Nam đương đại. Ý kiến của anh về chặng đường này...
H.N.H: Bài Về một đặc điểm của văn học của ta trong giai đoạn vừa qua (Văn nghệ, số 23/1979) là bài phê bình quan trọng đầu tiên của tôi về văn học Việt Nam đương đại. Bài báo đã thành công một cách "om sòm". Theo lời của Chế Lan Viên, "từ Nam chí Bắc trong cả nước, bài báo đi đến đâu, lập tức công chúng bị chia đôi: một phe ủng hộ nhiệt liệt, một phe ra sức bài bác". Bài báo được chú ý đến như vậy là do có một từ nghe lạ tai: "chủ nghĩa hiện thực phải đạo". Hóa ra trong phê bình văn học, cũng như trong các thể loại văn học khác, không thể thiếu được sự sáng tạo từ. Trong bài báo "Văn học thời kỳ vừa qua và xu thế phát triển" mới công bố gần đây tôi thử suy nghĩ những sự kiện văn học bằng hai phạm trù "âm" và "dương". Bài này cũng gây tranh luận nhưng không om sòm như bài trước. Trong văn học đương đại tôi chú ý đến những tác phẩm đánh dấu sự biến đổi sâu sắc của những tác giả đã có quá trình viết khá lâu (Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường) và những tác giả mới xuất hiện những năm gần đây như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Bảo Ninh... Tôi quan niệm rằng trong lĩnh vực văn học, để thực sự đổi mới trong hiện tại và tương lai, nhất thiết phải có sự nhìn lại, "nhìn mới" quá khứ, tức là di sản văn học cổ điển. Đọc lại Nguyễn Du, Trường ca Đam San, Vũ Trọng Phụng, Hàn Mặc Tử..., suy nghĩ lại tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi, Nam Cao... tôi đã viết những bài báo: "Triết lý Truyện Kiều", "Những giá trị nhân bản cao đẹp của Trường ca Đam San", "Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ", "Tiếp cận cái "siêu" trong thơ Hàn Mặc Tử”, "Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo"... Những bài phê bình văn học hiện đại và nghiên cứu văn học cổ điển đã được tuyển vào tập Văn học - Học văn (của Hoàng Ngọc Hiến xb ở Tp. Hồ Chí Minh, 1990).
P.V: Phương pháp nghiên cứu văn học của anh...?
H.N.H: Cuối những năm 60, tôi chủ trì hai cuộc hội nghị khoa học bàn về phương pháp nghiên cứu văn học (Khoa văn, Đại học sư phạm Vinh). Hội nghị tập hợp được nhiều bản báo cáo khoa học có giá trị. Kết quả là biên soạn được một tập "Sơ thảo giáo trình phương pháp luận nghiên cứu văn học". Tập giáo trình không xuất bản được. Hai mươi năm sau, một bài trong tập giáo trình (bài "Tăng cường chính xác khoa học trong nghiên cứu văn học") mới được dịp công bố trong tập "Các vấn đề của khoa học văn học" (N.x.b Khoa học xã hội, 1990). Phương pháp nghiên cứu văn học của tôi có thể tóm tắt trong ba từ: đích đáng, đích đáng và đích đáng. Đặt ra những vấn đề đích đáng, giải quyết vấn đề đưa ra được những ý kiến đích đáng, diễn đạt ý kiến tìm được những từ đích đáng.
P.V: Quan niệm của anh về phê bình văn học?
H.N.H: Tôi viết phê bình để làm "sáng giá" và "sang giá" những tác phẩm tôi tâm đắc. Không có sự tâm đắc này, phê bình văn học hướng về những mục đích ngoài văn học, Những bài phê bình hay làm người đọc yêu văn học. Yêu văn học là yêu những giá trị tinh thần, sự khô cạn của tình yêu này đương là một trong những sự cùng khốn của thế giới hiện đại. Cũng như các thể loại văn học khác, viết phê bình không thể thiếu cảm hứng. Người viết phê bình là người có những chủ kiến mạnh mẽ (về các vấn đề nhân sinh, cũng có khi là những vấn đề học thuật). Cảm hứng phê bình nảy sinh khi chủ kiến của nhà phê bình ngẫu nhiên cộng hưởng đâu đó với tác giả hoặc tác phẩm nào đó. Những chủ kiến của nhà phê bình là sản phẩm của sự suy nghĩ có ý thức đồng thời có gốc rễ vô thức (có những kinh nghiệm cá nhân và kinh nghiêm cộng đồng được tàng trữ ở đây). Có những chủ kiến được bộc lộ cho "thỏa chí", cho "bõ hờn", cái "chí", cái "hờn" này truyền sức mạnh cho chủ kiến. Nhà phê bình là điểm xuất phát. Trình bày những ý kiến nảy sinh từ sự cộng hưởng sao cho có sức thuyết phục với công chúng văn học, đây mới là lao động cơ bản của người làm phê bình. Cộng hưởng với tác giả nào, tác phẩm nào thì viết phê bình tác giả ấy, tác phẩm ấy. Nhà phê bình không thể không tìm hiểu tác giả, tác phẩm mình phê bình, sự tìm hiểu này có thể làm thay đổi chủ kiến của nhà phê bình nhưng cuối cùng thì viết phê bình vẫn là bộc lộ chủ kiến của mình. Octavio Paz hoàn toàn có lý: "Đối với nhà phê bình, bài thơ là một điểm xuất phát để đi đến một văn bản khác, văn bản của mình".
P.V
(TCSH51/09&10-1992)
--------------------------
(*) Đầu đề do chúng tôi đặt - TCSH.
NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)
NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.
ĐÀO DUY HIỆP “Hội làng mở giữa mùa thu Giời cao gió cả giăng như ban ngày” (Nguyễn Bính)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.