Dịch văn chương, nghệ thuật của điều bất khả

16:00 22/08/2025
Dịch thuật đi đến tận cùng vốn là nghệ thuật và sáng tạo. Dịch văn chương lại càng đòi hỏi sáng tạo của dịch giả bên cạnh khả năng diễn đạt nhuần nhuyễn ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích.

Vậy tổng quát thì dịch thuật là gì và quá trình dịch thuật ra sao? Dịch là quá trình truyền đạt nội dung ý nghĩa văn bản. Nida, một học giả nổi tiếng đã xem dịch thuật là một quá trình giải mã (decoding) và nhập mã lại (recoding) trải qua ba giai đoạn: phân tích, chuyển hóa, cơ cấu lại. Tác giả Naruse Yukio (成瀬由紀雄) trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã cho rằng về cơ bản dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là “giải thích” văn bản gốc (hiểu ý nghĩa) sau đó giai đoạn hai là “diễn đạt” ý nghĩa tương đương trong văn bản dịch. Việc “giải thích” thực chất là tìm hiểu ý nghĩa của văn bản và gán giá trị tương đương (等価 -とうか) để có thể truyền tải trọn vẹn thông điệp của văn bản gốc.

Do dịch thuật được tạo thành từ hai giai đoạn là giải thích và diễn đạt, mang nặng sắc thái chủ quan nên không thể nào có một bản dịch tuyệt đối đúng. Phiên dịch chính là sự sáng tạo của từng dịch giả (翻訳は翻訳者一人一人の創造するものである). Chính vì vậy đi cùng với sự tự do chính là trách nhiệm nặng nề mà mỗi dịch giả phải đảm đương. Ngoài ra một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến quá trình dịch thuật đó chính là tấm lưới lọc văn hóa. Khi tiếp cận một nền văn học của một xứ sở khác, điều đầu tiên chúng ta phải đối mặt chính là ngôn ngữ và văn hóa. Ta phải nghiên cứu đặc thù của ngôn ngữ và những đặc trưng văn hóa của đất nước đó kỹ lưỡng sau đó mới có thể hiểu được những tác phẩm văn học.

Chúng ta thử xem một trường hợp dịch của câu tục ngữ sau đây:

“Đá lăn rêu không mọc”
“A rolling stone gathers no moss.”
転がる石はコケむさない

Đây vốn là câu tục ngữ của Anh. Khi được truyền bá sang Mỹ và dịch sang tiếng Nhật, câu này được hiểu là nhấn mạnh tính năng động sáng tạo, trở thành triết lý “hòn đá lăn”, trong đó “lăn” được hiểu là nhiệt huyết, năng động, không chịu ngồi yên chấp nhận hoàn cảnh, còn “rêu” tượng trưng cho sự tiêu cực, sầu não, ám muội… Thế nhưng trong nguyên gốc tại Anh Quốc, câu này mang ý nghĩa ngược lại hoàn toàn. Vốn là nền văn hóa thiên về giá trị tĩnh tại nên “rêu” ở đây lại tượng trưng cho sự thành công. Và câu này có nghĩa là người nào thường xuyên thay đổi chỗ làm việc sẽ khó đạt được thành công.

Ví dụ này cho ta thấy điều gì? Vấn đề phiên dịch phần lớn không nằm ở trong ngôn ngữ mà trong cách hiểu in đậm dấu ấn văn hóa của chúng ta. Ngoài ra, khi phiên dịch văn chương, ta cần chú ý đến yếu tố exotic (外来の、別世界の) là ngoại lai, dị biệt mà chúng ta có thể dịch là yếu tố xa lạ (xa về địa lý và lạ về tâm lý).

Văn chương Nhật Bản nằm trong dòng chảy phương Đông có đặc thù là dồn nén cô đọng, chưa kể đặc thù của tiếng Nhật và những cảm thức thẩm mỹ của người Nhật Bản rất khác với Việt Nam. Như thế những điều mà người Nhật cảm thấy đương nhiên thì đối với người Việt Nam lại không hề là đương nhiên chẳng hạn như cảm thức aware, sabi, wabi… Vì thế khi chuyển dịch khó khăn nhiều khi không nằm ở ngôn ngữ mà nằm nơi vấn đề cảm thụ của người dịch và người đọc. Thơ haiku là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Như một bài haiku ám ảnh:

Dẫm trái khô vỡ
Làm quên
Số đếm bậc thang

Đối với người Việt Nam bài này rất khó hiểu nhưng với người từng sống ở Nhật, bài thơ ngắn này gợi ra cả một trời thu bát ngát. Việt Nam, đặc biệt trong miền Nam không hề có bốn mùa luân chuyển nên đặc trưng về mùa không rõ rệt. Nhưng Nhật Bản vào thu, lá vàng lá đỏ ngập một khung trời. Ta có thể hình dung một người đang bước lên cầu thang đá đến một đền thờ Thần đạo trên núi cao. Anh ta đang đếm bước cầu thang để xem có bao nhiêu bậc thang, để xem ngôi đền nằm vị trí cao cỡ nào. Trong khi bước, anh vô tình dẫm lên một trái cây khô rụng dưới chân và ngẩng đầu lên. Nếu đã có kinh nghiệm sống ở Nhật ta có thể hình dung ngay một rừng cây lá đỏ phủ ngập ngọn đồi, trái khô vỡ vương vãi khắp nơi. Trên đồi cao thấp thoáng ngôi đền thần đạo lặng yên trầm mặc. Bài thơ ngắn gọn giản dị mà gợi cả một trời thu bát ngát.

Nếu như ta am hiểu về những khái niệm mỹ học Nhật Bản như “Tịch liêu” (Sabi 寂) hay “Vô thường” (Mujo無常) thì việc cảm thụ bài thơ là gần như toàn bích, như người Nhật Bản. Và nếu chúng ta biết thêm một điều nữa là khi người Nhật ngắm lá đỏ là gửi gắm vào đó bao nhiêu ý nghĩa về cuộc đời, chúng ta lại hiểu thêm một tầng mức khác nữa. Tuy mùa xuân lá nào cũng xanh nhưng sang đến mùa thu có cây lá vàng có cây lá đỏ... cũng như đời người tuổi nhỏ ai cũng như nhau nhưng lớn lên mỗi người mỗi khác, “chín” theo kiểu của riêng mình, đi những con đường khác nhau. Chính vì vậy mà cuộc đời mới đẹp, cánh rừng mới đẹp vì được tô điểm nhiều màu sắc “muôn tía với ngàn hồng”.

Xét đến tận cùng khi đã đi qua ba lớp văn hóa, giải thích và diễn đạt của người dịch chúng ta sẽ không còn một tác phẩm gốc nguyên vẹn mà là một tác phẩm phái sinh được diễn giải qua lăng kính ba chiều.

Để trở thành một dịch giả, về tổng quát thì người dịch cần phải có năng lực đọc viết, am hiểu tri thức chuyên môn và có kiến thức, kỹ thuật phiên dịch như ngôn ngữ học so sánh, lịch sử phiên dịch, kỹ thuật phiên dịch…. Người dịch cần phải có đam mê, hiểu rõ lĩnh vực của mình. “Trong dịch thuật cái gì cũng dịch được có nghĩa là chẳng dịch được cái gì cả” (翻訳で「何でもできる」は「何もできない」と同義です). Dịch giả cần phải có chuyên môn sâu về lĩnh vực mình dịch hoặc về y học, kinh tế, tài chính, văn chương hay triết học.

Đối với dịch văn chương, điều quan trọng nhất ngoài sự đam mê thì chúng ta cần phải có khả năng cảm thụ sâu sắc và khả năng viết văn.

Khả năng cảm thụ liên quan đến việc thưởng thức văn bản theo nhãn quan riêng của mình. Như trường hợp nhà văn và dịch giả nổi tiếng thời Minh Trị Natsume Soseki chuyên nghiên cứu về văn học Anh. Ông đã rất khổ sở tìm hiểu liệu rằng người Nhật có thể thưởng thức được một văn bản được viết bằng tiếng Anh không? Nếu như không thể thì ý nghĩa của việc nghiên cứu văn học Anh của một người Nhật như Soseki nằm ở chỗ nào?

Thường trong trường hợp này sẽ có hai phương pháp giải quyết. Đầu tiên là cứ phó mặc cho người bản ngữ. Chẳng hạn “chuyên gia hàng đầu về tiếng Anh người bản ngữ nói là bản văn này ý tứ thâm sâu, do đó văn bản này thâm sâu ý nghĩa”… Đây là cách truyền thống của học giới Nhật Bản. Cách thứ hai là nhận định tuy mình không phải là người bản xứ nhưng cứ luyện tập liên tục, đến một lúc nào đó khả năng cảm thụ của mình cũng không khác lắm so với người bản xứ bao nhiêu. Nhưng rõ ràng là dù nỗ lực thế nào đi nữa cũng không thể nào trở thành như người bản xứ được.

Cách của Soseki cảm thụ từ lập trường của chính bản thân mình (自分なりJibunnari). Soseki đưa ra kết luận rằng nếu mình là người nước ngoài thì cứ thưởng thức bản văn theo kiểu của mình. Tất nhiên cách thưởng thức cá nhân đó có thể khác biệt chút ít với người Anh bản xứ nhưng vì chúng ta có thể thưởng thức được do đó cách thưởng thức của chúng ta cũng có ý nghĩa như cách thưởng thức của người bản xứ vậy. Đó là kết luận của Soseki.

Như vậy đầu tiên về việc cảm thụ bản văn chúng ta nên cảm thụ theo cách của mình như Soseki đã chỉ ra. Việc cảm thụ sẽ liên quan đến việc giải thích bản văn sau đó khi chuyển sang giai đoạn hai là “diễn đạt” thì chúng ta cần phải lưu ý khả năng viết của mình. Đây là một điều thú vị đương nhiên nhưng ít người để ý. Nếu chúng ta không thể diễn đạt được ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ thì chúng ta không thể nào dịch hay được.

Trong vấn đề phiên dịch tác giả Naruse chia làm bốn cấp độ: dịch những điều phổ biến, dịch mang sắc thái văn hóa, dịch nỗi niềm tác giả và cuối cùng là sức hấp dẫn của ngôn ngữ gốc. Tác giả Naruse chia sẻ thống thiết như sau: “Làm nghề dịch thuật đã nhiều năm tôi hiểu ra rằng xét đến tận cùng dịch thuật chỉ là dối trá. Bởi vì cho dù một bản dịch xuất sắc đến đâu đi nữa cũng đều khác biệt với nguyên tác. Đây không phải nói về mức độ dịch ý nghĩa hay dịch từ Anh sang Nhật mà là suy xét trên bình diện diễn đạt ngôn ngữ. Theo ý nghĩa đó, xét về bản chất dịch thuật chỉ là dối trá hư ngụy thôi. Tuy nhiên trong cảnh tuyệt vọng tối tăm như thế chúng ta, những người làm nghề dịch thuật vẫn nhìn ra ánh sáng phía cuối đường. Đó là sự sẻ chia hình ảnh, tâm tư tình cảm con người, tức là khả năng tương giao nhân loại. Chính vì vậy mà dịch thuật là việc giải phóng khỏi thế giới ngữ ngôn để tiến nhập vào thế giới của hình ảnh, có khả năng nối kết với thế giới của tâm hồn con người. Đó là điều mà tôi mong mỏi.”

Lời nhận xét xác đáng này càng đúng cho lĩnh vực dịch thuật văn chương. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tiến bước vào thế giới tâm hồn con người, bắc một nhịp cầu thông cảm tâm tư giữa hai nền văn hóa mà khởi sự tương giao?

Bài “Rạp xiếc” của Nakahara Chuya1 đã được tác giả Naruse Yukio trong quyển sách “Nhập môn phiên dịch” (翻訳の教科書) đã đưa ra làm ví dụ cho điều không thể dịch được bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, vượt lên trên ngôn ngữ, văn chương luôn có thể dịch được tâm tư tác giả chung một nỗi niềm thân phận con người. Đó cũng là cảnh giới cao nhất của dịch thuật mà các dịch giả phải nhắm đến.

Chúng ta cùng đọc bài thơ:

RẠP XIẾC

Biết bao thời đại trôi qua
Với cuộc chiến tranh màu xám

Biết bao thời đại trôi qua
Mùa đông gió thổi lạnh lùng

Biết bao thời đại trôi qua
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay
Nơi đây một cuộc sum vầy đêm nay

Từ chiếc  cao của rạp xiếc
Một chiếc đu thả xuống đung đưa
 hồ như  như không, ai biết
Chiếc đầu ngửa ra tay buông thõng

Từ trên mái  vải bạt bẩn 
Đung đưa đung đưa đung đưa
Ngọn đèn thắp sáng gần đó
Thở dài ra sợi ruy băng rẻ tiền

Quan khách chen chúc như  mòi
Khản cổ thét gào như vỏ hàu bị nghiến nát
Đung đưa đung đưa đung đưa

Ngoài rạp tăm tối đêm trường
Như kéo dài  tận
Chiếc  lượn cùng nỗi nhớ nhà xa xưa
Đung đưa đung đưa đung đưa

Như Paul Mackintosh và Maki Sugiyama nhận định về thơ Nakahara Chuya: “thơ ông lưu trữ rất nhiều những ngôn ngữ đời thường trong một sự đơn giản âm vang với nhịp điệu độc nhất của sự u uất và đa sầu đa cảm”2. Bản dịch bài thơ “Rạp xiếc”3 có thể nói chỉ là một mặt trái của bức tranh thêu, cho dù đầy đủ đường kim mũi chỉ thì cũng mất nhiều phần sắc nét của bên mặt phải. Có nghĩa là sức hấp dẫn của âm điệu bản gốc phần nào bị mất đi. Có thể gọi bản dịch gần như phải là một sáng tác mới gợi nên từ cảm hứng của bài thơ này. Tuy nhiên, vượt lên trên bức tường ngữ ngôn và văn hóa, chúng ta lại cảm thấy đồng điệu với tác giả về thân phận của một con người nghệ sĩ. Trong một túp lều nhân gian giữa đêm trường tối tăm, nhà nghệ sĩ cố gắng mua vui cho đám đông để tất cả quên đi nỗi hoài nhớ về một thiên đường quê nhà đã mất với những bất trắc của chiến tranh và lòng người. Có lẽ tác phẩm lớn nào cũng có thể “mua vui cũng được một vài trống canh” mà thôi.

Đặc trưng lớn nhất trong thơ Nakahara, theo như nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo nhận định là “Cảm giác xa xăm, cao viễn”. Đây là nguồn mạch của thơ ông. Yoshida viết “Ai trong chúng ta, hồi còn nhỏ, đều chắc chắn có lần cảm thấy một cảm giác mênh mông kỳ bí về vũ trụ không thể diễn tả bằng lời khi ngước nhìn lên trời sao thăm thẳm bao la. Nhưng riêng đối với Nakahara, ông đã mang theo những cảm giác trẻ thơ ấy đi suốt cuộc đời mình. Trong những câu mở đầu bài thơ “Rạp xiếc” nổi tiếng, “Bao thời đại” ở đây không phải nói đến những thời đại lịch sử mà qua sự lặp lại đó, ta phải hiểu nó ám chỉ một quá khứ xa xăm. Bài thơ này tiếp tục được triển khai về quang cảnh trong rạp xiếc và cuối cùng ý thơ hướng về thời gian tối tăm ở ngoài trời và một tương lai vô hạn. Cho nên quang cảnh trong rạp xiếc chỉ là một điểm trong dòng thời gian vô hạn đó thôi”4.

Bản dịch cũng giúp chúng ta phần nào cảm thụ thế giới tinh thần của tác giả và đồng cảm với nỗi niềm nghệ sĩ. Và vượt lên giới hạn ngôn ngữ văn hóa Nhật Bản, chúng ta lại nhìn thấy sự tương đồng với bài thơ “Hamlet” của nhà thơ Nga Boris Pasternak:

HAMLET

Tiếng ồn ào vừa tắt. Tôi bước ra sàn diễn
Tựa lưng vào cánh 
Tôi lắng nghe nơi tiếng vọng từ xa
Những  rồi xảy ra thời mình sống

Trong bóng đêm mập mờ nhập nhoạng
Hàng nghìn ống nhòm đang điều chỉnh chĩa vào tôi
Nếu  thể, Cha ơi
Chiếc chén đây xin hãy cất dời

Tôi yêu ý định ngang trái của Người
Chính tôi đã chấp thuận nhập vai
Nhưng giờ chuyển sang tuồng tích khác
Cho tôi nghỉ diễn lần này

Song kịch bản đã được duyệt rồi
 đoạn kết con đường không tránh khỏi
Tôi một mình,  pharixêu múa rối
Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi5

Như thế chúng ta có thể nói thực chất việc phiên dịch các tác phẩm văn chương chính là một cuộc tương giao vượt trên ngữ ngôn để nối kết tâm hồn nhân loại, để nhận chân về bản chất con người của chúng ta. Đó là điều không có máy móc nào có thể thay thế. Cho dù phương tiện kỹ thuật hiện đại thay đổi thế giới đến đâu đi nữa thì cái cảm xúc rưng rưng khi đọc được một bài thơ hay vẫn rất riêng con người mà không có cỗ máy nào cảm nhận được.

Để kết luận bài viết chúng tôi xin trích lời của chính tác giả Naruse:

“Dịch thuật là công việc của con người. Bởi vì dịch thuật kết nối tâm hồn con người lại với nhau. Máy móc chỉ có thể nối kết từ ngữ với từ ngữ, không thể nối kết tâm hồn và tâm hồn. Chỉ riêng có con người mới có thể “dĩ tâm truyền tâm”.

“翻訳は人間の仕事である。それは心と心をつなぐ営みだ からである。機械には言葉と言葉はつなげても心と心を つなぐことはできない。心と心をつなぐことができるのはただ人間だけだ”

Chừng nào con người trên trái đất còn sẻ chia chung một bầu trời và mặt đất, còn tranh đấu cho những điều đẹp đẽ quý giá vượt lên trên sự sống còn, văn chương và việc phiên dịch văn chương vẫn luôn tồn tại như liều thuốc chữa lành cần thiết an ủi mọi nỗi lầm than.

H.L
(TCSH437/07-2025)

-----------------
1 Nakahara Chuya (中原中也) sinh ngày 29/4/1907 tại tỉnh Yamaguchi, trung tâm của đạo Cơ đốc miền Tây Nhật Bản từ thế kỷ 16. Năm 13 tuổi đã có những bài tanka được chọn đăng trên các tạp chí. Năm 1924, ông được giới thiệu cho đọc những tác phẩm của Baudelaire, Rimbaud, Verlaine và bắt đầu đam mê văn học Pháp. Năm 1931, ông nhập học khoa tiếng Pháp trường ngoại ngữ Tokyo, chuẩn bị cho công cuộc dịch thơ Rimbaud sau này của ông. Hai tuyển tập thơ Rimbaud do ông dịch đã được in vào các năm 1933 và năm 1937. Khi qua đời ở tuổi 30 năm 1937, nhà thơ Nakahara Chuya chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta山羊の歌), “Bài ca ngày tháng cũ” (在りし日の歌Arishi hi no uta) nhưng vị trí của ông trong nền văn học Nhật Bản là không thể thay thế.
2 Paul Mackintosh và Maki Sugiyama, The poems of Nakahara Chuya, Nxb. Gracewing, 1993, phần lời dẫn nhập.
3 Bản dịch được chúng tôi dịch từ nguyên tác Nhật ngữ, trích trong thi tập Nakahara Chuya, Nxb. Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
4 Dịch từ phần “Giải thuyết” của nhà nghiên cứu Yoshida Hiroo in cuối thi tập Nakahara Chuya, Nxb Shinchosha, tái bản lần thứ 15, năm 2011.
5 Bản dịch của Thanh Thảo và Phạm Vĩnh Cư, trích trong tuyển tập thơ Boris Pasternak, Sở Văn hóa và Thông tin Phú Khánh, 1987.

Tài liệu tham khảo:

1. Naruse Yukio (成瀬由紀雄), Phiên dịch nhập môn 翻訳の教科書, sách ebook trên mạng Internet.
2. HirakoYoshio (平子義雄), Nguyên lý dịch thuật (翻訳の原理)、Nxb. Taishukan (大修館書店), xuất bản năm 1999.
3. Hoàng Long, Bông hồng cho ngày tháng không tên (tiểu luận và dịch thuật về văn hóa văn học Nhật Bản), Nxb. Phụ Nữ, 2018.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

    Mở đầu bài viết này, chúng tôi xin nói đến hai sự kiện văn học diễn ra gần đây.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Chúng ta có thể nghĩ, hiểu và làm văn học theo cách riêng mà mỗi cá nhân có thể tạo lập và mục đích cuối cùng là phụng hiến cho nền văn học với những giá trị phổ quát.

  • NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ

    Cho đến năm 2013, tôi mới bắt đầu chính thức cầm bút. Tôi miệt mài viết trong 3 năm liền, giống như một cuộc chơi càng viết càng đam mê, có lúc cảm chừng như không đủ thời gian còn lại để viết tất cả những gì mình muốn, song hành cả thơ và truyện ngắn với lối sử dụng bút pháp đa dạng, khi tả thực, khi tượng trưng, lúc huyền ảo, thơ cũng như truyện.

  • TRU SA  

    Tôi chưa từng nghĩ rằng sẽ theo văn chương. Trước đây là thế và bây giờ vẫn vậy, những gì tôi làm chỉ là viết xuống giấy những thứ sinh sôi trong cơ thể mình.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ

    Với văn chương, tôi không biết phải nói về nó như thế nào, về việc bén duyên, hay hoàn cảnh thôi thúc tôi đến với nó. Những ý niệm này, có đôi lần tôi đã lẩn thẩn nghĩ đến, thỉnh thoảng băn khoăn một chút, rồi thì mọi sự dường như diễn tiến theo một cách nào đó tôi cũng không nắm bắt được nữa. Tự nhiên nhi nhiên vậy.

  • Như thường lệ, vào số báo đầu năm mới, Sông Hương giới thiệu đến quý bạn đọc những tiếng nói của các cây bút trẻ. Đó là những tiếng nói đầy nhiệt huyết trong khu vườn sáng tạo. Những tiếng nói ấy chứa đựng trong mình biết bao khát vọng cất tiếng, khát vọng cách tân để đưa nghệ thuật làm tròn bổn phận của nó: Làm ra cái mới.

  • TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT  

    Sau đổi mới, năm 1986, Việt Nam tăng tốc mở rộng kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa khiến cho môi trường bị biến đổi.

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Truyện Nôm bác học đã và đang được quan tâm soi chiếu từ nhiều hướng, nhiều phương pháp. Trong quá trình quan sát và khảo tả, phân tích đối tượng này, chúng tôi thấy có sự lặp lại đáng chú ý hiện tượng thân phận con người.

  • LTS: Ngoài các công trình nghiên cứu, dịch thuật Phật học, khi còn trụ thế, Hòa thượng Thích Chơn Thiện còn viết nhiều sách, báo về văn hóa dân tộc, gần đây nhất là loạt bài biên khảo Tư tưởng Việt Nam: Nhân bản thực tại luận.
    Sông Hương xin trích đăng một số trong loạt bài ấy, như là tấm lòng ngưỡng vọng đến vị Đạo cao, Đức trọng vừa thu thần viên tịch.

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    Từ sau 1945, có một kiểu người viết văn đã hình thành với chỗ mạnh chỗ yếu của họ. Bài viết không có tham vọng trình bày vấn đề một cách toàn diện, mà chỉ đi vào một số khía cạnh:

  • NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG

    Motif người hóa đá/ đá hóa người là một trong những motif phổ biến của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.

  • DANA GIOIA
    (Tiếp theo Sông Hương số tháng 10/2016)  

    V.
    Xem chừng thơ trong nhà trường lại nhiều hơn ở ngoài thế giới, trẻ em không được bảo cho biết tại sao lại như vậy. Hẳn các em phải ngạc nhiên.
                (Robert Frost)

  • PHẠM ĐĂNG TRÍ

    Tết năm ấy, tôi không về Huế ở lại Hà Nội, tôi nhận được một gói quà từ nhà gởi ra. Lúc mở, chỉ thấy mấy cái bánh gói giấy ngũ sắc. Ấn tượng rực rỡ này làm tôi liên tưởng đến phạm trù “ngũ sắc” của Á Đông, đã ra đời từ hàng nghìn năm nay.

  • DANA GIOIA

    Làm cho thực tại tầm thường trở thành mê hoặc.
                    [Guillaume Apollinaire]

  • TRẦN KHÁNH PHONG

    Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định nguyên lí con người phải tự làm ra chính mình, chứ không trông chờ vào ai khác, cho dù tồn tại có bi đát, ngặt nghèo.

  • Nếu lấy mốc thời điểm năm 1919 để xét đoán Different from the others là bộ phim đầu tiên trực diện về đề tài đồng tính, thì đến nay, lịch sử khai thác đề tài “cấm kỵ” này đã có một hành trình dài gần như song song cùng với sự ra đời của nghệ thuật thứ 7. Với tính chính trị xã hội và đạo đức, cho đến nay, đây vẫn là một vấn đề hết sức đặc biệt trong mọi loại hình nghệ thuật. Lịch sử điện ảnh đã ghi nhận rất nhiều bộ phim với những diễn ngôn tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập. Yêu cầu cấp thiết đặt ra, đó là việc phải “nhận thức lại thực tại”, đặt ra/xác quyết lại quan điểm của công chúng về một tầng lớp người vốn bị xem như “bệnh hoạn”/“lạc loài”…

  • ĐỖ TRINH HUỆ

    Cadière đến Việt Nam cuối thế kỷ 19 và hoạt động văn hóa những năm đầu thế kỷ 20, vào thời điểm mà người Pháp còn mang tư tưởng nước lớn và mẫu gương của nhân loại trong nhiều lĩnh vực.

  • NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI

    Thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du được biểu hiện ở nhiều phương diện. Chẳng hạn như năng lực phát hiện vấn đề, phát hiện những nghịch lý, năng lực cảm thông với những nỗi khổ đau của con người, tài năng cấu tứ, tài năng sử dụng ngôn ngữ, thánh thơ lục bát,…

  • VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI   

    NGUYỄN HỒNG DŨNG