Dấu ấn thời gian nơi nhà thờ Chính tòa Phủ Cam

15:27 04/12/2014

Trải qua bao thăng trầm cùng lịch sử, xây rồi phá, phá rồi xây nhưng vẻ đẹp trong lối kiến trúc của nhà thờ chính tòa Phủ Cam vẫn luôn hiện hữu, thách thức với thời gian.

Nhà thờ Phủ cam trước năm 1930 (Ảnh: Internet).

“Sinh ra” trên mảnh đất được xem là trung tâm văn hóa Phật giáo, cổ kính, thâm trầm, dường như nhà thờ Chính tòa Phủ Cam (thường gọi tắt là nhà thờ Phủ Cam/Phú Cam) đã mang trong mình chút lạc lõng và nổi bật với vị trí ngay giữa lòng thành phố Huế. Cũng chính sự khác biệt đó là nguồn cơn cho những trắc trở trong hành trình gìn giữ và kiếm tìm diện mạo của nhà thờ này.

Gian nan hành trình kiến tạo

Được xây dựng lần đầu tiên vào cuối thế kỷ XVII, nhà thờ Phủ Cam được xem là giáo đường lớn và lâu đời nhất của cố đô. Lần đầu tiên, vào năm 1682, Linh mục Langlois (1640 - 1770) cho xây dựng nhà nguyện Phủ Cam bằng tranh tre tại xóm Đá, ở sát bờ sông An Cựu. Nhưng, sau đó chỉ 2 năm, vì có được hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi, cho nên chính vị Linh mục này đã cho triệt giải nhà nguyện đơn sơ ấy và mua đất trên đồi Phước Quả để xây dựng một nhà thờ bằng đá kiên cố và to lớn hơn. Bấy giờ, nhà thờ quay mặt về hướng tây (tức là phía ga Huế ngày nay). Dù đó là một công trình kiến trúc được mô tả là rất chắc chắn và "chưa từng có ở xứ này, được nhà vua (tức là chúa Nguyễn Phúc Tần) và quan lại thán phục", nhưng đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), vào năm 1698, ngôi nhà thờ ấy đã bị triệt giải hoàn toàn.

 



Nhà thờ Phủ Cam đầu thế kỷ XX (Ảnh: Internet).


Số phận của ngôi thánh đường chưa dừng lại ở đó. Khi đạo Thiên Chúa bắt đầu được nhìn nhận lại vào đúng 2 thế kỷ sau, năm 1898, Giám mục Allys (1852 - 1936) cho xây dựng mới nhà thờ Phủ Cam bằng gạch lợp ngói khá đồ sộ tại vị trí cũ. Nhưng lần này thì nhà thờ quay mặt về hướng bắc (phía Kỳ đài của Kinh thành) và do chính Giám mục Allys vẽ thiết kế rồi giám sát thi công. Công việc xây dựng được hoàn thành vào năm 1902. Nhà thờ mang nét kiến trúc "Gothique". Hai bên mặt tiền có hai tháp chuông thân hình trụ vuông, đỉnh tròn, cao vừa phải. Ở tầng 2 của  hai tháp, có một hành lang nối liền chúng lại với nhau. "Nét chủ đạo kiến trúc lần này là những vòm duyên dáng đổ xuống trên những trụ có những nét hoa văn cây lá, những hình thiên thần. Đặc biệt nhà thờ có một vườn hoa được chắn đất đào xuống sâu và phẳng với hai la thành chạy lượn lên cao dần, mềm mại duyên dáng với 16 bậc cấp bằng gạch ở phía trước tiền đường" (Trích "Lược sử các giáo xứ" do Tổng Giáo phận Huế biên soạn, Huế, 2001, tập 1, tr.50).
 


Nhà thờ Phủ Cam năm 1930 (Ảnh: Internet).


Và sự đổi mới cả về diện tích lẫn quy mô một lần nữa được thiết kế cho nhà thờ này để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của số lượng giáo dân ngày càng tăng cao. Lần thứ 10 được xây dựng lại là vào đầu năm 1963, dưới thời Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục (1897 - 1984) cho triệt giải nhà thờ cũ để làm mới một ngôi nhà thờ rộng lớn hơn. Nhà thờ lần này do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. 

Ðầu năm 1963, nhà thờ bắt đầu được khởi công xây dựng. Trong khi việc xây dựng đang tiến hành thì xảy ra (1/11/1963), tổng thống Ngô Đình Diệm bị sát hại và Tổng Giám mục Ngô Đình Thục lúc đó đang đi họp Cộng đồng Vatican II ở Roma, vì hoàn cảnh chính trị không trở về Việt Nam nên việc xây dựng cũng bị chững lại.

Tiến độ công việc xây dựng thánh đường, do sự tác động của lịch sử, đã kéo dài tới năm 1967 mới xây lên đến phần cung thánh. Trong sự kiện Tết Mậu Thân (1968), bom đạn chiến tranh vô tình phá hỏng thêm phần lớn công trình, cho đến năm 1975 vẫn chưa được hoàn tất. Sau thống nhất đất nước và mãi đến năm 1995, phần thân nhà thờ về cơ bản mới được hoàn thành.

Năm 1999, để chuẩn bị cho hai ngày 28 và 29/06/2000, là ngày Tổng Giáo phận Huế cung hiến nhà thờ chính tòa Phủ Cam nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Giáo phận Huế (kể từ khi tách rời khỏi Giáo phận Đàng Trong), Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể hạ quyết tâm và cho xây cất lại thánh đường một cách hoàn chỉnh, đến ngày 29/06/2000 thì hoàn tất.

 


Qua mỗi lần “thay da đổi thịt”, nhà thờ Phủ Cam vẫn luôn giữ được vẻ đẹp hiện đại đáng ngưỡng vọng.


Như thế, trải qua 3 đời Giám mục - từ Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đến Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền và Tổng Giám mục Nguyễn Như Thể - sau gần 40 năm xây dựng, nhà thờ chính tòa Phủ Cam mới hoàn thành với diện mạo như hiện nay.

Đặc sắc kiến trúc


Hiện nay, nhà thờ Phủ Cam là nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận Huế, tọa lạc trên đồi Phước Quả (06 đường Nguyễn Trường Tộ, phường Phức Vĩnh, Tp. Huế) với tổng diện tích khuôn viên là 10.804m2.




Nhà thờ Phủ Cam hiện tại.


Nói về kiến trúc của nhà thờ Phủ Cam, không thể không nhắc đến KTS Ngô Viết Thụ, người đã tạo nên “cốt cách” đường bệ và tinh tế cho ngôi thánh đường này. Là một người con đất Huế, được biết đến với khả năng tinh thông Hán học, phong thủy, lại hết sức am tường về ngôn ngữ và kiến trúc phương Tây, ông từng đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955 và là người châu Á đầu tiên được vinh danh là Viện sĩ danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông còn sáng tác thơ văn, vẽ tranh và có tầm hiểu biết rộng đối với các nhạc cụ dân tộc, chính điều này đã tạo nên sự đặc sắc, đa ngôn trong những công trình kiến trúc của ông và cần rất nhiều thời gian mới có thể bóc tách, thấm nhuần được. Có thể nói, Ngô Viết Thụ là một sự tổng hòa các nét văn hóa và được thể nghiệm vào trong kiến trúc những công trình sáng tạo của ông. 

Những năm 60 được xem là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo, thiết kế nên những công trình đồ sộ trong cuộc đời của KTS tài hoa Ngô Viết Thụ, mà theo như KTS Ngô Viết Nam Sơn, “Ba tôi vẽ nhiều bằng tất cả những năm khác cộng lại” (Trò chuyện với KTS.Ngô Viết Nam Sơn về người cha, Báo Giác Ngộ, 21/08/2013). Cùng với các công trình như trường ĐHSP Huế, khách sạn Hương Giang I, Dinh Độc lập Sài Gòn, Viện Hạt nhân ở Đà lạt… thì Nhà thờ Phủ Cam là một công trình được sáng tạo vào giai đoạn thăng hoa đó. 

Nhà thờ Phủ Cam là một công trình giàu tính biểu đạt, mặt đứng như một cuốn kinh thánh mở rộng, mặt bằng xây dựng mang dạng một Thánh giá: đầu Thánh giá hướng về phía nam, chân Thánh giá hướng về phía bắc, và ở gần đầu hơn, hai bên vươn ra hai cánh Thánh giá. Và nhìn tổng thể các đường nét, nhà thờ như hình tượng một con rồng vươn thẳng lên trời, vừa mạnh mẽ nhưng vừa thanh thoát nhẹ nhàng, mang đầy tính nghệ thuật và tôn giáo.




Vừa mang dáng dấp một cuốn kinh thánh mở rộng, vừa giống miệng rồng ngước lên trời xanh như sự bao la của Chúa...


Hình ảnh Đức mẹ Đồng trinh và Chúa hài đồng đơn giản nhưng nổi bật nhìn từ bên ngoài Thánh đường.



... nhìn từ góc độ nào, nhà thờ Phủ Cam cũng đều mang vẻ đẹp của sự tôn nghiêm và cao quý.


Nhà thờ được kết cấu theo kỹ thuật xây dựng hiện đại, nhưng trang trí thì phần lớn vẫn theo nghệ thuật cổ điển Tây phương. Các trụ đỡ mái được đúc sát vào hai chân tường trong của nhà thờ, uốn dần ra phía trước khi vươn cao lên, rồi nối lại với nhau từng cặp bằng một đường cong trên đỉnh, mềm mại như những bàn tay đang chắp lại để cầu nguyện. Đặc biệt là ở phần Cung thánh, từ mỗi một trong 4 góc, đều có 3 trụ đỡ vươn dần ra, như những bàn tay muốn nắm lấy nhau, tạo thành một không gian đủ rộng để ôm kín bàn thờ. Cung thánh là một hình tròn có các cấp đi lên, trên cung là một hình tròn nhưng nhỏ hơn với bàn thờ. Bàn thờ bằng đá cẩm thạch nguyên khối lấy từ Non Nước - Đà Nẵng, đặt trên một viên đàn (hình tròn) có ba cấp tượng trưng cho tam tài: Thiên - Địa - Nhân, một yếu tố trong kiến trúc Phương Đông, là nơi đặt bục giảng của các linh mục… và các ghế ngồi cho những người hành lễ.
 



Những bức tượng bằng đá trắng là điểm nhấn trong khu vườn của nhà thờ.



Vườn hoa trong khuôn viên nhà thờ Phủ Cam luôn được chăm sóc cẩn thận.

 


Những loài hoa khoe sắc nơi Thánh đường.
 




Hàng ngày, đây là điểm đến yên bình cho những bạn trẻ muốn học bài, suy tư…


Đặt trên bệ cao, ngay chính giữa là Cây Thánh Giá (một cây thông lấy từ đồi Thiên An - Huế), có tượng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, bên trên là bức hoạ Đức Chúa Giê-su dang tay ra trong bữa tiệc ly với dòng chữ: “Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời”. Mỗi năm, đến lễ Giáng sinh, hàng ngàn con chiên đến dự lễ cũng như khách tham quan đông nghẹt trước và trong nhà thờ.




Nét đường bệ trong lòng nhà thờ Phủ Cam.


Lòng nhà thờ rộng thênh thang với những dãy ghế dài có thể chứa được khoảng 2.500 người đến dự lễ. Hai bên lòng nhà thờ trang trí hai dãy tranh vẽ đóng trong từng khung gỗ thể hiện về đời Chúa Giê-su, và bên trên là hai dãy cửa kính trong và màu xanh lá chuối non để cung cấp đủ ánh sáng cho nội thất, kể cả vào mùa mưa. Nhà Tạm được xây sát vào phần lõm phía sau của lòng nhà thờ và nằm trên một bệ cao đặt ở chính giữa, vừa trang nghiêm, vừa dễ thấy.

Không chỉ khuôn viên nhà thờ mang hình cây Thánh giá, nội thất Thánh đường cũng có hình dáng tương tự với hai cánh hai bên. Không gian bên cánh trái (từ trong nhìn ra) là nơi thiết lập bàn thờ để thờ thánh tử đạo Tống Viết Bường (bị giết năm 1833), người gốc Phủ Cam. Và không gian bên cánh phải (đối diện) là phần mộ của cố Giám mục Nguyễn Kim Điền (1921 - 1988), người có nhiều công nhất trong việc xây dựng nhà thờ này.


Phần mộ cố Giám mục Nguyễn Kim Điền


Bàn thờ Thánh tử vì đạo Tống Viết Bường

Nhà thờ Phủ Cam có hai ngọn tháp chuông cao 43.5m (với 12 tầng mỗi tháp), chiều dài và chiều rộng của nhà thờ là 80m x 24m, phía trước sân nhà thờ có hai pho tượng thánh Phê-rô và thánh Phao-lô bằng xi-măng trắng do nghệ nhân Đinh Văn Lương (TP. Hồ Chí Minh) đúc.Tượng được đúc làm ba đoạn, sau đó, được đổ xi-măng vào ráp lại. Tất cả đã tạo nên sự hoàn mỹ cho một công trình tôn nghiêm, ấn tượng nhưng cũng hết sức mềm mại, gần gũi như cánh tay của Chúa luôn đủ rộng cho tất thảy mọi con chiên ngoan đạo hướng về.




Tháp chuông nhà nhờ và tượng hai thánh.

 


Thánh Phao-lô và Thánh Phê-rô là những bổn mạng của nhà thờ chính tòa Phủ Cam.
 


Vẻ đẹp lung linh của Nhà thờ chính tòa Phủ Cam lúc đêm về.


Ngày nay, nhà thờ Phủ Cam là điểm đến quen thuộc không chỉ cho những người theo đạo Thiên Chúa mà cho cả những du khách khi đến tham quan xứ Huế. Một vẻ đẹp riêng, vừa uy nghiêm, vừa thanh thoát đã góp phần tô điểm cho thành phố Huế thêm cổ kính, thêm hiện đại và thêm độc đáo.

Theo Ngọc Bích/Khám phá Huế

 

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Đề cao vai trò cũng như trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội, lần đầu tiên tại Huế, cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một tổ chức giáo dục đã nêu rõ quan điểm, lập trường, bảo vệ quyền của người phụ nữ: trường Nữ Công học hội.

  • Ít người biết tượng “ông già Bến Ngự” Phan Bội Châu bên bờ sông Hương (Huế) lại có liên quan đến nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn.

  • Chiều ngày 19/10, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức buổi giới thiệu hai cuốn sách “Em còn gì sau chiến tranh”  và “Biến cố 182010” của nhà văn Hà Khánh Linh.

  • Ngày kinh đô Huế thất thủ (5/7/1885), không những hàng vạn thần dân bị sát hại mà vô số cổ vật triều đình cũng bị cướp đi, kể cả ống đựng tăm xỉa răng.

  • Sau hơn 140 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã để lại cả kho tàng cổ vật, làm nên phần hồn của di sản văn hóa Huế ngày nay.

  • Chuyên đề Phê bình Nữ quyền là một cố gắng của Ban biên tập nhằm giới thiệu những nét phác thảo ban đầu: “Người viết nữ, giới tính và trang giấy trắng” (Đoàn Huyến) đề cập Cái bẫy giới tính  - giới tính như một cái bẫy êm ái - đã làm hạn chế sức sáng tạo; vậy phải thoát khỏi cái bẫy đó như thế nào? Và có đủ cam đảm để tự “khánh thành mình” như một trang giấy trắng, mà ở đó cô đơn và tự do là những xung lực lạ kỳ để chủ thể sáng tạo có thể thăng hoa? “Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại” (Đoàn Ánh Dương) dẫn dắt bạn đọc đi theo hành trình văn học nữ Việt Nam từ sau 1975 đến nay; xác định những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể. 

  • Trong hành trình tìm kiếm và quảng bá những điểm đến hấp dẫn của Việt Nam, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và bình chọn của các đơn vị du lịch, cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam, du khách trong cả nước. Vừa qua, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã công bố Top 45 điểm đến hấp dẫn nhất ở Việt Nam, trong đó Thừa Thiên Huế vinh dự có 6/45 điểm đến du lịch hấp dẫn được bình chọn.

  • Huế đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Ca Huế không chỉ phản ánh dòng chảy lịch sử, di sản này còn là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa tạo nên một âm sắc Huế, rất riêng.

  • Với sự tham gia của ĐẶNG MẬU TỰU * LÊ VĂN LÂN * ĐINH CƯỜNG * PHẠM THỊ ANH NGA * LÊ HUỲNH LÂM * TÔN PHONG * MAI VĂN PHẤN * PHẠM ĐỨC MẠNH * HỒNG VINH * NGUYÊN NGỌC - TÔN NỮ MINH CHÂU * NGUYỄN XUÂN SANG * NGUYỄN ĐỨC TÙNG * ALICIA OSTRIKER * JEAN VALENTINE * TIM SUERMONDT * NHẬT CHIÊU * PHI TÂN * VÕ NGỌC LAN * PHƯƠNG ANH * NGUYỄN DƯ HOÀI MỤC * ĐỖ XUÂN CẨM * QUẾ HƯƠNG * NGUYỄN KHOA QUẢ * HOÀNG DIỆP LẠC * LÊ MINH PHONG * NGÔ ĐÌNH HẢI * NGÔ MINH
    Sông Hương số đặc biệt tháng 9/2105 trân trọng gửi đến quý bạn đọc.

  • Số báo này xuất bản cũng nhằm vào những ngày Liên hiệp Hội tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm thành lập. Bài “70 năm, một dòng chảy văn học nghệ thuật nối tiếp văn mạch của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa sẽ điểm lại diễn trình 70 năm đáng tự hào của văn nghệ xứ Huế. 

  • Hiếm có làng nào lại quy định rõ ràng về việc dọn thức ăn trong ma chay như làng Mỹ Phú (xã Phong Chương, H.Phong Điền, Thừa Thiên-Huế).

  • Ở không ít làng quê xứ Huế ngày nay, lệ làng vẫn tồn tại với nhiều quy định khắt khe, chặt chẽ.

  • Tháng 8 năm này, kỷ niệm 95 năm ngày sinh của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (18/8/1920). Một bài viết trong số này, đã nhắc lại “cuộc hóa thân của đất đá” trong sự nghiệp lừng lẫy của bà. Các truyện ngắn được chọn đăng, vừa có những thử nghiệm bút pháp mới, vừa sâu thẳm tính nhân văn; và một lần nữa, trách nhiệm cụ thể của nhà văn được khơi mở: Làm sao vừa có những sáng tạo đầy bứt phá về nghệ thuật, vừa có thể gắn chặt với thực tại? Làm sao để những biến ảo kỳ diệu của tâm thức đời sống, của tiềm thức con người, của “cái bóng” đa nhân cách cuộc đời không dễ nắm bắt… có thể đi vào văn học nghệ thuật? Tất cả lại là những vấn đề muôn thuở của văn học

  • Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa “Thái giám” nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thuỷ Xuân (TP.Huế). Đây là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của Huế, nhưng ít người biết được nguồn gốc đầy nước mắt của ngôi cổ tự này. Nơi đây có một nghĩa trang của những con người mang thân phận không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà...

  • Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng Thành – Kinh Thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng Thành và vương triều phong kiến.

  • Hệ thống thơ văn trên di tích Huế có một phần rất lớn là Ngự chế thi của vua Minh Mạng, trong đó, đặc biệt tại Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng) là nơi có nhiều thơ của nhà vua được chạm khắc, trang trí để lưu truyền cho hậu thế.

  • Từ ngày 17 đến 23 tháng 7 năm 2015, trại sáng tác văn học Phong Điền năm 2015 đã diễn ra tại vùng Ngũ Điền do Hội nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND huyện Phong Điền tổ chức.

  • Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864)...

  • Trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế xuất hiện hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán. Hệ thống di sản tư liệu độc đáo này vừa được giải mã để đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới.

  • Chỉ cần nhìn làn da bất chấp tuổi tác của những người phụ nữ trong gia đình này, bạn sẽ thấy bí quyết làm đẹp từ hoàng cung mà họ được truyền lại qua mấy đời thực sự diệu kỳ đến thế nào. Đó là bí mật để làm ra những viên phấn nụ, dưới công thức của các ngự y triều Nguyễn, chỉ dành cho những giai nhân ở chốn cấm cung.