Trải qua bao thăng trầm cùng lịch sử, xây rồi phá, phá rồi xây nhưng vẻ đẹp trong lối kiến trúc của nhà thờ chính tòa Phủ Cam vẫn luôn hiện hữu, thách thức với thời gian.
Nhà thờ Phủ cam trước năm 1930 (Ảnh: Internet).
“Sinh ra” trên mảnh đất được xem là trung tâm văn hóa Phật giáo, cổ kính, thâm trầm, dường như nhà thờ Chính tòa Phủ Cam (thường gọi tắt là nhà thờ Phủ Cam/Phú Cam) đã mang trong mình chút lạc lõng và nổi bật với vị trí ngay giữa lòng thành phố Huế. Cũng chính sự khác biệt đó là nguồn cơn cho những trắc trở trong hành trình gìn giữ và kiếm tìm diện mạo của nhà thờ này.
Gian nan hành trình kiến tạo
Được xây dựng lần đầu tiên vào cuối thế kỷ XVII, nhà thờ Phủ Cam được xem là giáo đường lớn và lâu đời nhất của cố đô. Lần đầu tiên, vào năm 1682, Linh mục Langlois (1640 - 1770) cho xây dựng nhà nguyện Phủ Cam bằng tranh tre tại xóm Đá, ở sát bờ sông An Cựu. Nhưng, sau đó chỉ 2 năm, vì có được hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi, cho nên chính vị Linh mục này đã cho triệt giải nhà nguyện đơn sơ ấy và mua đất trên đồi Phước Quả để xây dựng một nhà thờ bằng đá kiên cố và to lớn hơn. Bấy giờ, nhà thờ quay mặt về hướng tây (tức là phía ga Huế ngày nay). Dù đó là một công trình kiến trúc được mô tả là rất chắc chắn và "chưa từng có ở xứ này, được nhà vua (tức là chúa Nguyễn Phúc Tần) và quan lại thán phục", nhưng đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725), vào năm 1698, ngôi nhà thờ ấy đã bị triệt giải hoàn toàn.
Nhà thờ Phủ Cam đầu thế kỷ XX (Ảnh: Internet).
Số phận của ngôi thánh đường chưa dừng lại ở đó. Khi đạo Thiên Chúa bắt đầu được nhìn nhận lại vào đúng 2 thế kỷ sau, năm 1898, Giám mục Allys (1852 - 1936) cho xây dựng mới nhà thờ Phủ Cam bằng gạch lợp ngói khá đồ sộ tại vị trí cũ. Nhưng lần này thì nhà thờ quay mặt về hướng bắc (phía Kỳ đài của Kinh thành) và do chính Giám mục Allys vẽ thiết kế rồi giám sát thi công. Công việc xây dựng được hoàn thành vào năm 1902. Nhà thờ mang nét kiến trúc "Gothique". Hai bên mặt tiền có hai tháp chuông thân hình trụ vuông, đỉnh tròn, cao vừa phải. Ở tầng 2 của hai tháp, có một hành lang nối liền chúng lại với nhau. "Nét chủ đạo kiến trúc lần này là những vòm duyên dáng đổ xuống trên những trụ có những nét hoa văn cây lá, những hình thiên thần. Đặc biệt nhà thờ có một vườn hoa được chắn đất đào xuống sâu và phẳng với hai la thành chạy lượn lên cao dần, mềm mại duyên dáng với 16 bậc cấp bằng gạch ở phía trước tiền đường" (Trích "Lược sử các giáo xứ" do Tổng Giáo phận Huế biên soạn, Huế, 2001, tập 1, tr.50).
Nhà thờ Phủ Cam năm 1930 (Ảnh: Internet).
Và sự đổi mới cả về diện tích lẫn quy mô một lần nữa được thiết kế cho nhà thờ này để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của số lượng giáo dân ngày càng tăng cao. Lần thứ 10 được xây dựng lại là vào đầu năm 1963, dưới thời Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục (1897 - 1984) cho triệt giải nhà thờ cũ để làm mới một ngôi nhà thờ rộng lớn hơn. Nhà thờ lần này do Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế.
Ðầu năm 1963, nhà thờ bắt đầu được khởi công xây dựng. Trong khi việc xây dựng đang tiến hành thì xảy ra (1/11/1963), tổng thống Ngô Đình Diệm bị sát hại và Tổng Giám mục Ngô Đình Thục lúc đó đang đi họp Cộng đồng Vatican II ở Roma, vì hoàn cảnh chính trị không trở về Việt Nam nên việc xây dựng cũng bị chững lại.
Tiến độ công việc xây dựng thánh đường, do sự tác động của lịch sử, đã kéo dài tới năm 1967 mới xây lên đến phần cung thánh. Trong sự kiện Tết Mậu Thân (1968), bom đạn chiến tranh vô tình phá hỏng thêm phần lớn công trình, cho đến năm 1975 vẫn chưa được hoàn tất. Sau thống nhất đất nước và mãi đến năm 1995, phần thân nhà thờ về cơ bản mới được hoàn thành.
Năm 1999, để chuẩn bị cho hai ngày 28 và 29/06/2000, là ngày Tổng Giáo phận Huế cung hiến nhà thờ chính tòa Phủ Cam nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Giáo phận Huế (kể từ khi tách rời khỏi Giáo phận Đàng Trong), Tổng Giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể hạ quyết tâm và cho xây cất lại thánh đường một cách hoàn chỉnh, đến ngày 29/06/2000 thì hoàn tất.
Qua mỗi lần “thay da đổi thịt”, nhà thờ Phủ Cam vẫn luôn giữ được vẻ đẹp hiện đại đáng ngưỡng vọng.
Như thế, trải qua 3 đời Giám mục - từ Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đến Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền và Tổng Giám mục Nguyễn Như Thể - sau gần 40 năm xây dựng, nhà thờ chính tòa Phủ Cam mới hoàn thành với diện mạo như hiện nay.
Đặc sắc kiến trúc
Hiện nay, nhà thờ Phủ Cam là nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận Huế, tọa lạc trên đồi Phước Quả (06 đường Nguyễn Trường Tộ, phường Phức Vĩnh, Tp. Huế) với tổng diện tích khuôn viên là 10.804m2.
Nhà thờ Phủ Cam hiện tại.
Nói về kiến trúc của nhà thờ Phủ Cam, không thể không nhắc đến KTS Ngô Viết Thụ, người đã tạo nên “cốt cách” đường bệ và tinh tế cho ngôi thánh đường này. Là một người con đất Huế, được biết đến với khả năng tinh thông Hán học, phong thủy, lại hết sức am tường về ngôn ngữ và kiến trúc phương Tây, ông từng đoạt giải Khôi nguyên La Mã năm 1955 và là người châu Á đầu tiên được vinh danh là Viện sĩ danh dự của Viện Kiến trúc Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông còn sáng tác thơ văn, vẽ tranh và có tầm hiểu biết rộng đối với các nhạc cụ dân tộc, chính điều này đã tạo nên sự đặc sắc, đa ngôn trong những công trình kiến trúc của ông và cần rất nhiều thời gian mới có thể bóc tách, thấm nhuần được. Có thể nói, Ngô Viết Thụ là một sự tổng hòa các nét văn hóa và được thể nghiệm vào trong kiến trúc những công trình sáng tạo của ông.
Những năm 60 được xem là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo, thiết kế nên những công trình đồ sộ trong cuộc đời của KTS tài hoa Ngô Viết Thụ, mà theo như KTS Ngô Viết Nam Sơn, “Ba tôi vẽ nhiều bằng tất cả những năm khác cộng lại” (Trò chuyện với KTS.Ngô Viết Nam Sơn về người cha, Báo Giác Ngộ, 21/08/2013). Cùng với các công trình như trường ĐHSP Huế, khách sạn Hương Giang I, Dinh Độc lập Sài Gòn, Viện Hạt nhân ở Đà lạt… thì Nhà thờ Phủ Cam là một công trình được sáng tạo vào giai đoạn thăng hoa đó.
Nhà thờ Phủ Cam là một công trình giàu tính biểu đạt, mặt đứng như một cuốn kinh thánh mở rộng, mặt bằng xây dựng mang dạng một Thánh giá: đầu Thánh giá hướng về phía nam, chân Thánh giá hướng về phía bắc, và ở gần đầu hơn, hai bên vươn ra hai cánh Thánh giá. Và nhìn tổng thể các đường nét, nhà thờ như hình tượng một con rồng vươn thẳng lên trời, vừa mạnh mẽ nhưng vừa thanh thoát nhẹ nhàng, mang đầy tính nghệ thuật và tôn giáo.
Vừa mang dáng dấp một cuốn kinh thánh mở rộng, vừa giống miệng rồng ngước lên trời xanh như sự bao la của Chúa...
Hình ảnh Đức mẹ Đồng trinh và Chúa hài đồng đơn giản nhưng nổi bật nhìn từ bên ngoài Thánh đường.
... nhìn từ góc độ nào, nhà thờ Phủ Cam cũng đều mang vẻ đẹp của sự tôn nghiêm và cao quý.
Nhà thờ được kết cấu theo kỹ thuật xây dựng hiện đại, nhưng trang trí thì phần lớn vẫn theo nghệ thuật cổ điển Tây phương. Các trụ đỡ mái được đúc sát vào hai chân tường trong của nhà thờ, uốn dần ra phía trước khi vươn cao lên, rồi nối lại với nhau từng cặp bằng một đường cong trên đỉnh, mềm mại như những bàn tay đang chắp lại để cầu nguyện. Đặc biệt là ở phần Cung thánh, từ mỗi một trong 4 góc, đều có 3 trụ đỡ vươn dần ra, như những bàn tay muốn nắm lấy nhau, tạo thành một không gian đủ rộng để ôm kín bàn thờ. Cung thánh là một hình tròn có các cấp đi lên, trên cung là một hình tròn nhưng nhỏ hơn với bàn thờ. Bàn thờ bằng đá cẩm thạch nguyên khối lấy từ Non Nước - Đà Nẵng, đặt trên một viên đàn (hình tròn) có ba cấp tượng trưng cho tam tài: Thiên - Địa - Nhân, một yếu tố trong kiến trúc Phương Đông, là nơi đặt bục giảng của các linh mục… và các ghế ngồi cho những người hành lễ.
Những bức tượng bằng đá trắng là điểm nhấn trong khu vườn của nhà thờ.
Vườn hoa trong khuôn viên nhà thờ Phủ Cam luôn được chăm sóc cẩn thận.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Những loài hoa khoe sắc nơi Thánh đường.
Hàng ngày, đây là điểm đến yên bình cho những bạn trẻ muốn học bài, suy tư…
Đặt trên bệ cao, ngay chính giữa là Cây Thánh Giá (một cây thông lấy từ đồi Thiên An - Huế), có tượng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, bên trên là bức hoạ Đức Chúa Giê-su dang tay ra trong bữa tiệc ly với dòng chữ: “Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời”. Mỗi năm, đến lễ Giáng sinh, hàng ngàn con chiên đến dự lễ cũng như khách tham quan đông nghẹt trước và trong nhà thờ.
Nét đường bệ trong lòng nhà thờ Phủ Cam.
Lòng nhà thờ rộng thênh thang với những dãy ghế dài có thể chứa được khoảng 2.500 người đến dự lễ. Hai bên lòng nhà thờ trang trí hai dãy tranh vẽ đóng trong từng khung gỗ thể hiện về đời Chúa Giê-su, và bên trên là hai dãy cửa kính trong và màu xanh lá chuối non để cung cấp đủ ánh sáng cho nội thất, kể cả vào mùa mưa. Nhà Tạm được xây sát vào phần lõm phía sau của lòng nhà thờ và nằm trên một bệ cao đặt ở chính giữa, vừa trang nghiêm, vừa dễ thấy.
Không chỉ khuôn viên nhà thờ mang hình cây Thánh giá, nội thất Thánh đường cũng có hình dáng tương tự với hai cánh hai bên. Không gian bên cánh trái (từ trong nhìn ra) là nơi thiết lập bàn thờ để thờ thánh tử đạo Tống Viết Bường (bị giết năm 1833), người gốc Phủ Cam. Và không gian bên cánh phải (đối diện) là phần mộ của cố Giám mục Nguyễn Kim Điền (1921 - 1988), người có nhiều công nhất trong việc xây dựng nhà thờ này.
|
|
Nhà thờ Phủ Cam có hai ngọn tháp chuông cao 43.5m (với 12 tầng mỗi tháp), chiều dài và chiều rộng của nhà thờ là 80m x 24m, phía trước sân nhà thờ có hai pho tượng thánh Phê-rô và thánh Phao-lô bằng xi-măng trắng do nghệ nhân Đinh Văn Lương (TP. Hồ Chí Minh) đúc.Tượng được đúc làm ba đoạn, sau đó, được đổ xi-măng vào ráp lại. Tất cả đã tạo nên sự hoàn mỹ cho một công trình tôn nghiêm, ấn tượng nhưng cũng hết sức mềm mại, gần gũi như cánh tay của Chúa luôn đủ rộng cho tất thảy mọi con chiên ngoan đạo hướng về.
Tháp chuông nhà nhờ và tượng hai thánh.
![]() |
![]() |
Thánh Phao-lô và Thánh Phê-rô là những bổn mạng của nhà thờ chính tòa Phủ Cam.
Vẻ đẹp lung linh của Nhà thờ chính tòa Phủ Cam lúc đêm về.
Ngày nay, nhà thờ Phủ Cam là điểm đến quen thuộc không chỉ cho những người theo đạo Thiên Chúa mà cho cả những du khách khi đến tham quan xứ Huế. Một vẻ đẹp riêng, vừa uy nghiêm, vừa thanh thoát đã góp phần tô điểm cho thành phố Huế thêm cổ kính, thêm hiện đại và thêm độc đáo.
Theo Ngọc Bích/Khám phá Huế
Những biến cố của lịch sử đã khiến cho một lượng cổ vật lớn và quý hiếm đã “biến mất” khỏi cố đô Huế. Hãy cùng lật lại những điểm mốc ấy.
Triều đại phong kiến vua Nguyễn cuối cùng tại Huế đã trải qua với bao biến cố lịch sử. Hàng vạn cổ vật quý hiếm đi cùng triều đại này hiện đã mất mát quá nhiều, không còn “ở lại” được trên mảnh đất nó đã từng tồn tại.
Hai đồng tiền cổ quý hiếm là loại tiền dùng để ban thưởng chứ không dùng để trao đổi, mua bán có tên là “Gia Long thông bảo” và “Minh Mạng thông bảo” với kích thước rất lớn vừa được một người dân ở Quảng Bình lần đầu phát hiện.
Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc tuý của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới.
Huế từ lâu đã là một trung tâm văn hóa, du lịch của cả nước. Festival văn hóa nghệ thuật kết hợp với du lịch đã tạo cú hích cho thế mạnh đặc thù của quần thể di tích cố đô Huế - được công nhận là di sản thế giới vào năm 1993, từ đó tạo diện mạo cho Huế có sự phát triển mới, mạnh mẽ hơn.
Lọng là sản phẩm độc đáo được dùng để tôn vinh sự trang trọng, quý phái trong các nghi lễ của triều đình xưa, cũng như trong các lễ nghi cúng tế mang đậm tín ngưỡng dân gian. Từ đám rước thần linh, đám tang, lễ cưới, hỏi… đều có sự hiện diện của chiếc lọng.
Trong kiến trúc xưa, có lẽ không nơi nào có nhiều bức bình phong như ở Huế. Khắp các cung đình, phủ đệ, đến các đền chùa, am miếu, đình làng, nhà thờ họ và nhà thường dân…đều hiện hữu những bức bình phong.
Võ tướng Nguyễn Tri Phương đã dành cả đời ông trong công cuộc giữ yên bờ cõi và chống ngoại xâm trải qua ba đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Khi Hà thành thất thủ vào tay quân Pháp, ông đã nhịn đói cho đến chết.
Gần đây có một bộ tranh chân dung của các vua triều Nguyễn được vẽ mới và phổ biến, thu hút được nhiều sự chú ý của người xem. Nếu chỉ thưởng thức các bức vẽ này như những ảnh vui mắt, đầy mầu sắc thì được.
Vua Gia Long lên ngôi năm 1802 và qua đời năm 1820, thọ 57 tuổi. Trong tập Ngự dược nhật ký của châu bản triều Nguyễn, cho thấy những năm cuối đời nhà vua đã mắc bệnh nan y và các ngự y đã phải vất vả để điều trị.
“Toàn bộ cuốn sách làm bằng bạc mạ vàng, chỉ có 5 tờ (10 trang) nhưng nặng tới 7 ký, xuất hiện vào thời vua Thiệu Trị (1846), có kích cỡ 14×23 cm..."
Khi nói Huế rặt, tôi muốn kể chuyện chỉ có Huế mới có, không lẫn vào đâu được ...
Phó giáo sư, Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm vừa qua đời lúc 8g15 ngày 2-11 (nhằm ngày 21 tháng 9 Ất Mùi), hưởng thọ 84 tuổi.
Đang những ngày mưa ở Huế tháng 10 này, lại nhắc đến mưa Huế, liệu đây có phải là đặc sản của Huế của mùa thu Huế, nhưng Huế làm gì có mùa thu? Hay là mùa thu Huế quá ngắn đến mức nhiều người không kịp nhận ra...?
Chiều 30-10, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên - Huế phối hợp Hội Khoa học Lịch sử tỉnh và Công ty CP Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam (Vietravel) tổ chức Hội thảo khoa học “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” diễn ra tại Hội trường UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Di tích Tam Tòa nằm ở góc đông nam bên trong Kinh thành cách bờ bắc sông Hương 300m về phía nam, qua cửa Thượng Tứ. Khu di tích Tam Toà toạ lạc tại số 23 đường Tống Duy Tân, phường Thuận Thành, thành phố Huế.
Từ năm 2012 đến nay, Hội Đông y Thừa Thiên-Huế đã tiếp cận và giải mã kho tư liệu châu bản triều Nguyễn đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia 1 (Hà Nội).
Xứ Huế không chỉ có các công trình lăng tẩm cổ kính mà còn được thiên nhiên ưu đãi ban cho sự hùng vĩ. Nổi bật trong đó là đầm Lập An với vẻ đẹp say đắm lòng người.
Để có thể lực cường tráng, chăn gối viên mãn, ngoài thuốc men tẩm bổ, Minh Mạng còn rèn luyện sức khỏe bằng phương pháp mà ngày nay rất phổ biến.
Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (Thừa Thiên-Huế) không chỉ là hệ thủy vực nước lợ lớn nhất Đông Nam Á mà nơi đây còn có những câu chuyện đầy kỳ bí được ghi chép hoặc truyền miệng từ xa xưa.