Dật sĩ Thuận Hóa - Nguyễn Đăng Đàn

08:28 17/11/2016

TRẦN VIẾT ĐIỀN

Thời loạn xã hội đảo điên, phong hóa suy đồi, quan tham dân đói,… thường có những người thầy giỏi và đức độ, chăm lo giáo dục nhằm tạo những người học trò tài đức để chuyển loạn thành trị, cứu nước cứu dân… ấy là công lệ của lịch sử.

Lớp học của thầy đồ ngày xưa

Thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, kế đến là thời Duệ vương Nguyễn Phúc Thuần, Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ (tức Đàng Trong) bắt đầu suy tàn, nhà chúa ăn chơi xa xỉ, quyền thần đa phần tham nhũng hối lộ, chỉ lo tư túi để sống xa hoa, binh tướng thì hèn yếu chây lười, khi có lệnh đi dẹp loạn thì đùn đẩy, tránh né bằng tiền của phi nghĩa… thì ắt có những thầy giáo ẩn dật, quyết giữ đạo của thánh hiền như Ngô Kim Bằng (hiệu Thế Lân) (làng Thế Lại), Thân Văn Quyền (làng Nguyệt Biều), Lê Cao Kỷ (làng Đồng Di), Trương Văn Hiến (Huế, Phù Cát - Quy Nhơn)… Trong những người thầy như thế, có thầy Nguyễn Đăng Đàn ở Thuận Hóa, sống đời dật sĩ, rất nổi tiếng tài giỏi và đức độ, đã đào tạo những học trò giỏi, góp phần chuyển loạn thành trị, chuyển đất nước từ qua phân thành nhất thống.

Thầy Nguyễn Đăng Đàn - một dật sĩ
 

Một đình làng ở Hương Thủy

Thầy Nguyễn Đăng Đàn người huyện Hương Trà, Hóa Châu (nay thuộc huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế), từng ngụ ở chân núi Thanh Thủy (đồi Châu Sơn (?)). Nguyễn Đăng Đàn còn có tên là Nguyễn Đăng Tường, tự là Thuần Nhất, hiệu Bất Nhị, thuở bé nổi tiếng thần đồng, khi đọc sách một lượt đã thuộc lòng. Vào tuổi 13, cậu bé Đàn đã làu thông kinh sử. Thời thanh niên, thầy dốc chí học đạo thánh hiền, giỏi lý học, thạo binh pháp, tài có thể kinh bang tế thế nhưng không thích bon chen chốn trường thi, chẳng ưa vinh hoa phú quí chốn quan trường. Thầy Nguyễn Đăng Đàn được người đời tôn xưng thầy là Siêu Quần tiên sinh. Nhà ở của thầy là tường đất, lợp tranh nhưng thầy ung dung tự tại, khiêm tốn, thích làm việc thiện và đặc biệt là say mê dạy học.

Do ưu thời mẫn thế, không thể khoanh tay nhìn cảnh dân chúng lầm than, thầy Nguyễn Đăng Đàn đã từng đứng về phía dân nghèo, viết thỉnh nguyện (tầm cỡ quốc sách) bằng chữ Nôm, vào tận phủ chúa để dâng lên Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Đại lược trong thỉnh nguyện, thầy nói người làm vua phải coi trọng việc cầu hiền, nghe lời can của bề tôi trung trực, xa lánh tôi nịnh,… Những tưởng việc làm của thầy có khả năng mang trọng tội, nhưng không ngờ những góp ý của thầy quá đúng đắn, thiết thực, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát rất đẹp lòng, hết lời khen ngợi, muốn mời thầy giúp rập nhà chúa, muốn bổ dụng thầy làm trọng quan nhưng thầy Nguyễn Đăng Đàn nhất mực từ chối. Thầy lui về chân núi Thanh Thủy ẩn dật, dựng nhà tranh vách đất để ở và dạy học. Học trò thầy đến vài trăm người, phần nhiều thành đạt.

Cây ngọt sinh trái ngọt

Người cháu nội, học trò của thầy là Nguyễn Đăng Trường, một bề tôi giỏi thời Duệ vương Nguyễn Phúc Thuần. Nguyễn Đăng Trường là người có học thức cao, khảng khái, có chí khí và nổi tiếng trung nghĩa. Năm Giáp Ngọ [1774], quân đội Lê - Trịnh tiến đánh Phú Xuân, Duệ vương sai tiết chế Tôn Thất Chất, tham tán Nguyễn Đăng Trường đem quân thủy bộ chống đánh, bị thua ở sông Phú Lễ, ông rước mẹ là Hoàng thị theo hầu xa giá vào Quảng Nam. Khi Duệ vương lên thuyền vào nam, ông rước mẹ là Hoàng Thị theo hầu chúa Duệ Tôn, gửi vợ con nương nhờ họ ngoại, gặp gió ngược, chúa sai ông lên bộ cầu đảo, gió thuận, thuyền chúa lên đường quá gấp, ông lỡ thuyền, phải ở lại Quảng Nam, cùng vợ là Từ thị phụng dưỡng mẹ già. Năm Bính Thân [1776], ông rước mẹ lên thuyền vào Gia Định, gặp gió mạnh thuyền giạt vào cửa Thị Nại, ông bị quân Tây Sơn bắt. Nguyễn Huệ biết Nguyễn Đăng Trường là bậc hiền sĩ, trọng đãi ông như bạn mà cũng coi ông như thầy nhưng ông nhất mực không nhận lễ. Lúc bấy giờ Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đang bị Tây Sơn quản thúc. Dưới chiêu bài tôn phò dòng chánh hệ của chúa Nguyễn nên hoàng tôn Dương sớm thành nghĩa tế của Tây Sơn trại trưởng Nguyễn Nhạc. Nguyễn Đăng Trường mật mưu với hoàng tôn để vị này trốn vào Gia Định trước. Một hôm, Nguyễn Đăng Trường nói thực với Nguyễn Huệ về ý định của ông là muốn theo chủ cũ để trọn nghĩa vua tôi. Nguyễn Huệ khuyên: “Tiên sinh đi chuyến này, ý muốn xoay lại trời đất, được chăng? Tôi e rằng ngày sau ăn năn cũng muộn mất”. Nguyễn Đăng Trường khảng khái: “Đại trượng phu ở đời lấy trung hiếu làm đầu. Tôi nay mang mẹ đi theo vua, nghĩa ấy thật đã rõ ràng; còn việc cùng hay thông, được hay hỏng là ở số mệnh, đâu có ăn năn!”. Nguyễn Huệ cảm phục lòng trung nghĩa của Nguyễn Đăng Trường cho ông đi Gia Định, tặng ông vàng lụa nhưng ông từ chối… Vào Gia Định, Nguyễn Đăng Trường tận tụy với vai trò tham mưu dưới trướng của Tân Chính vương (Hoàng Tôn Dương)… Năm Đinh Dậu [1777] Nguyễn Huệ vào đánh Gia Định, Nguyễn Đăng Trường đang chống giữ Sài Gòn, bị thua và bị quân Tây Sơn bắt. Nguyễn Huệ hỏi: “Tiên sinh, ngày nay tính sao?” Nguyễn Đăng Trường đáp: “Việc ngày nay chỉ giữ nghĩa, không mong sống. Vua nhục, tôi chết đó là phận sự. Còn hỏi làm chi!. Nguyễn Huệ không thu phục được Nguyễn Đăng Trường đành phải sai thuộc hạ giết ông…

Thay lời kết

Trung với vua sao cho “trí trung” chứ đừng “ngu trung” là bài toán làm đau đầu của trí thức ngày xưa. Xuất xử hai đường làm giày vò biết bao kẻ sĩ. Có một con đường đúng đắn mà nhiều kẻ sĩ đã đi, không bao giờ sai, đó là con đường mà thầy Chu Văn An đã từng chọn. Thời thịnh, vua sáng tôi hiền thì phải vào chốn quan trường, đem sở học để kinh bang tế thế. Thời loạn vua tối, quan tham thì ẩn dật, giữ tiết, không yếm thế, không bức xúc dễ thành cuồng sĩ, mà phải phải đem sở học giúp dân nghèo, làm thầy giáo ở hương thôn, bền bĩ đào tạo những học trò giỏi giang và đức độ để đợi ngày chuyển loạn thành trị vậy. Con đường trí trung rốt cục là trung với dân với nước mà thôi! Hai ông cháu Nguyễn Đăng Đàn và Nguyễn Đăng Trường với hành trạng hoàn toàn khác nhau, ông thì xử mà cháu thì xuất vào thời mạt Nguyễn ở Đàng Trong. Cháu chết rất oanh liệt, về sau được thờ ở miếu Trung tiết công thần. Còn ông khi chết, được người đời tôn xưng là Siêu Quần tiên sinh, vì ông đã đào tạo rất nhiều học trò tài giỏi và đức độ để góp phần trung hưng đất nước. Thiển nghĩ, ở thị xã Hương Thủy nên có trường học mang tên Nguyễn Đăng Đàn, Nguyễn Đăng Trường để góp phần giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo vậy.

T.V.Đ
(SHSDB22/09-2016)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.