TRẦN VIẾT ĐIỀN
Thời loạn xã hội đảo điên, phong hóa suy đồi, quan tham dân đói,… thường có những người thầy giỏi và đức độ, chăm lo giáo dục nhằm tạo những người học trò tài đức để chuyển loạn thành trị, cứu nước cứu dân… ấy là công lệ của lịch sử.
Lớp học của thầy đồ ngày xưa
Thời Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, kế đến là thời Duệ vương Nguyễn Phúc Thuần, Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ (tức Đàng Trong) bắt đầu suy tàn, nhà chúa ăn chơi xa xỉ, quyền thần đa phần tham nhũng hối lộ, chỉ lo tư túi để sống xa hoa, binh tướng thì hèn yếu chây lười, khi có lệnh đi dẹp loạn thì đùn đẩy, tránh né bằng tiền của phi nghĩa… thì ắt có những thầy giáo ẩn dật, quyết giữ đạo của thánh hiền như Ngô Kim Bằng (hiệu Thế Lân) (làng Thế Lại), Thân Văn Quyền (làng Nguyệt Biều), Lê Cao Kỷ (làng Đồng Di), Trương Văn Hiến (Huế, Phù Cát - Quy Nhơn)… Trong những người thầy như thế, có thầy Nguyễn Đăng Đàn ở Thuận Hóa, sống đời dật sĩ, rất nổi tiếng tài giỏi và đức độ, đã đào tạo những học trò giỏi, góp phần chuyển loạn thành trị, chuyển đất nước từ qua phân thành nhất thống.
Thầy Nguyễn Đăng Đàn - một dật sĩ
![]() |
Một đình làng ở Hương Thủy |
Thầy Nguyễn Đăng Đàn người huyện Hương Trà, Hóa Châu (nay thuộc huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế), từng ngụ ở chân núi Thanh Thủy (đồi Châu Sơn (?)). Nguyễn Đăng Đàn còn có tên là Nguyễn Đăng Tường, tự là Thuần Nhất, hiệu Bất Nhị, thuở bé nổi tiếng thần đồng, khi đọc sách một lượt đã thuộc lòng. Vào tuổi 13, cậu bé Đàn đã làu thông kinh sử. Thời thanh niên, thầy dốc chí học đạo thánh hiền, giỏi lý học, thạo binh pháp, tài có thể kinh bang tế thế nhưng không thích bon chen chốn trường thi, chẳng ưa vinh hoa phú quí chốn quan trường. Thầy Nguyễn Đăng Đàn được người đời tôn xưng thầy là Siêu Quần tiên sinh. Nhà ở của thầy là tường đất, lợp tranh nhưng thầy ung dung tự tại, khiêm tốn, thích làm việc thiện và đặc biệt là say mê dạy học.
Do ưu thời mẫn thế, không thể khoanh tay nhìn cảnh dân chúng lầm than, thầy Nguyễn Đăng Đàn đã từng đứng về phía dân nghèo, viết thỉnh nguyện (tầm cỡ quốc sách) bằng chữ Nôm, vào tận phủ chúa để dâng lên Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Đại lược trong thỉnh nguyện, thầy nói người làm vua phải coi trọng việc cầu hiền, nghe lời can của bề tôi trung trực, xa lánh tôi nịnh,… Những tưởng việc làm của thầy có khả năng mang trọng tội, nhưng không ngờ những góp ý của thầy quá đúng đắn, thiết thực, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát rất đẹp lòng, hết lời khen ngợi, muốn mời thầy giúp rập nhà chúa, muốn bổ dụng thầy làm trọng quan nhưng thầy Nguyễn Đăng Đàn nhất mực từ chối. Thầy lui về chân núi Thanh Thủy ẩn dật, dựng nhà tranh vách đất để ở và dạy học. Học trò thầy đến vài trăm người, phần nhiều thành đạt.
Cây ngọt sinh trái ngọt
Người cháu nội, học trò của thầy là Nguyễn Đăng Trường, một bề tôi giỏi thời Duệ vương Nguyễn Phúc Thuần. Nguyễn Đăng Trường là người có học thức cao, khảng khái, có chí khí và nổi tiếng trung nghĩa. Năm Giáp Ngọ [1774], quân đội Lê - Trịnh tiến đánh Phú Xuân, Duệ vương sai tiết chế Tôn Thất Chất, tham tán Nguyễn Đăng Trường đem quân thủy bộ chống đánh, bị thua ở sông Phú Lễ, ông rước mẹ là Hoàng thị theo hầu xa giá vào Quảng Nam. Khi Duệ vương lên thuyền vào nam, ông rước mẹ là Hoàng Thị theo hầu chúa Duệ Tôn, gửi vợ con nương nhờ họ ngoại, gặp gió ngược, chúa sai ông lên bộ cầu đảo, gió thuận, thuyền chúa lên đường quá gấp, ông lỡ thuyền, phải ở lại Quảng Nam, cùng vợ là Từ thị phụng dưỡng mẹ già. Năm Bính Thân [1776], ông rước mẹ lên thuyền vào Gia Định, gặp gió mạnh thuyền giạt vào cửa Thị Nại, ông bị quân Tây Sơn bắt. Nguyễn Huệ biết Nguyễn Đăng Trường là bậc hiền sĩ, trọng đãi ông như bạn mà cũng coi ông như thầy nhưng ông nhất mực không nhận lễ. Lúc bấy giờ Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương đang bị Tây Sơn quản thúc. Dưới chiêu bài tôn phò dòng chánh hệ của chúa Nguyễn nên hoàng tôn Dương sớm thành nghĩa tế của Tây Sơn trại trưởng Nguyễn Nhạc. Nguyễn Đăng Trường mật mưu với hoàng tôn để vị này trốn vào Gia Định trước. Một hôm, Nguyễn Đăng Trường nói thực với Nguyễn Huệ về ý định của ông là muốn theo chủ cũ để trọn nghĩa vua tôi. Nguyễn Huệ khuyên: “Tiên sinh đi chuyến này, ý muốn xoay lại trời đất, được chăng? Tôi e rằng ngày sau ăn năn cũng muộn mất”. Nguyễn Đăng Trường khảng khái: “Đại trượng phu ở đời lấy trung hiếu làm đầu. Tôi nay mang mẹ đi theo vua, nghĩa ấy thật đã rõ ràng; còn việc cùng hay thông, được hay hỏng là ở số mệnh, đâu có ăn năn!”. Nguyễn Huệ cảm phục lòng trung nghĩa của Nguyễn Đăng Trường cho ông đi Gia Định, tặng ông vàng lụa nhưng ông từ chối… Vào Gia Định, Nguyễn Đăng Trường tận tụy với vai trò tham mưu dưới trướng của Tân Chính vương (Hoàng Tôn Dương)… Năm Đinh Dậu [1777] Nguyễn Huệ vào đánh Gia Định, Nguyễn Đăng Trường đang chống giữ Sài Gòn, bị thua và bị quân Tây Sơn bắt. Nguyễn Huệ hỏi: “Tiên sinh, ngày nay tính sao?” Nguyễn Đăng Trường đáp: “Việc ngày nay chỉ giữ nghĩa, không mong sống. Vua nhục, tôi chết đó là phận sự. Còn hỏi làm chi!”. Nguyễn Huệ không thu phục được Nguyễn Đăng Trường đành phải sai thuộc hạ giết ông…
Thay lời kết
Trung với vua sao cho “trí trung” chứ đừng “ngu trung” là bài toán làm đau đầu của trí thức ngày xưa. Xuất xử hai đường làm giày vò biết bao kẻ sĩ. Có một con đường đúng đắn mà nhiều kẻ sĩ đã đi, không bao giờ sai, đó là con đường mà thầy Chu Văn An đã từng chọn. Thời thịnh, vua sáng tôi hiền thì phải vào chốn quan trường, đem sở học để kinh bang tế thế. Thời loạn vua tối, quan tham thì ẩn dật, giữ tiết, không yếm thế, không bức xúc dễ thành cuồng sĩ, mà phải phải đem sở học giúp dân nghèo, làm thầy giáo ở hương thôn, bền bĩ đào tạo những học trò giỏi giang và đức độ để đợi ngày chuyển loạn thành trị vậy. Con đường trí trung rốt cục là trung với dân với nước mà thôi! Hai ông cháu Nguyễn Đăng Đàn và Nguyễn Đăng Trường với hành trạng hoàn toàn khác nhau, ông thì xử mà cháu thì xuất vào thời mạt Nguyễn ở Đàng Trong. Cháu chết rất oanh liệt, về sau được thờ ở miếu Trung tiết công thần. Còn ông khi chết, được người đời tôn xưng là Siêu Quần tiên sinh, vì ông đã đào tạo rất nhiều học trò tài giỏi và đức độ để góp phần trung hưng đất nước. Thiển nghĩ, ở thị xã Hương Thủy nên có trường học mang tên Nguyễn Đăng Đàn, Nguyễn Đăng Trường để góp phần giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo vậy.
T.V.Đ
(SHSDB22/09-2016)
PHAN VĂN DẬT Tiếp theo kỳ trước (Sông Hương số 16-85)
LTS: Đoạn trích dưới đây nằm trong cuốn sách “Sauvenirs de Hue” (Hồi ký về Huế) do tác giả người Pháp Michel Đức Chaigneau viết vào năm 1867. Ông sinh ở Huế năm 1803 và mất ở Pháp năm 1894, trừ một thời gian trở về nước Pháp, ông đã sống ở Huế 21 năm.
HOÀNG TRUNG THÔNGAnh Hải Triều Nguyễn Khoa Văn sống một cuộc đời đấu tranh cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Tôi được đọc anh từ những bài viết chống nghệ thuật vị nghệ thuật, chống duy tâm và cả lý thuyết cho rằng nước ta không có chế độ phong kiến.
LTS: Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Đạm Phương nữ sử (1881- 2011), 85 năm ra đời Nữ Công Học hội Huế (15.6.1926 - 15.6.2011) do bà Đạm Phương sáng lập, ngày 18.6 tới đây, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế và Viện Văn học Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Đây là cuộc hội thảo về Đạm Phương nữ sử lần đầu tiên, và được tổ chức ngay tại Huế, quê hương của Bà.
PHAN VĂN DẬT Một ngày dựa mạn thuyền rồng Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài.
NGUYỄN CƯƠNG Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.
NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾNXưa nay, trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, Huế được nói đến rất nhiều, nhất là với những người con của Huế trong đó có những hoàng tử của triều Nguyễn đặc biệt là các hoàng tử của triều vua Minh Mạng.
L.T.S: Ông Nguyễn Hải Âu quê ở Hà Nam Ninh. Năm 1941 ông đi lính bị đưa sang Pháp rồi sang Alger. Ở Pháp và Alger ông tham gia lãnh đạo phong trào phản chiến nên bị đưa sang Calcutta, không cho hồi hương.
TRẦN THỊ NHƯ MÂNTrong số những phụ nữ ở Huế mà tôi được gặp lúc thiếu thời, có một khuôn mặt tôi nhớ mãi, không những vì có nhiều quan hệ gần gũi với tôi, mà một lúc nào đó đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Đó là bà Đạm Phương.
LÊ VĂN HIẾN(Trích hồi ký)
LND: Bửu Đình là một nhà văn có tinh thần yêu nước được các tầng lớp thanh niên thời kỳ trước ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam yêu mến. Vừa rồi, nhân đọc cuốn “Những bí mật trên Côn Đảo” của nhà văn Demario Giang Colotdo viết từ những năm 1935-1936 (xuất bản tại Paris năm 1956) - một cuốn sách ca ngợi khí tiết của những người tù cộng sản trên Côn Đảo, thấy có một chương (1) viết về Bửu Đình, tôi xin dịch để giới thiệu với bạn đọc Sông Hương. Đây là tư liệu đầu tiên giới thiệu Bửu Đình, rất mong bạn đọc và gia đình của nhà văn Bửu Đình cung cấp thêm tư liệu để chúng tôi có thể giới thiệu một cách đầy đủ về nhà văn của núi Ngự sông Hương này.
Vắng mặt Sông Hương suốt mấy trăng,Đuổi xong ma bệnh rước tin mừng…
NGUYỄN ĐẮC XUÂNDo Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ ở Việt Nam, cho nên người phụ nữ Huế ngoài dân trăm họ thông thường như các địa phương khác còn có phụ nữ thuộc tầng lớp vương giả sống trong chốn Nội cung nhà Nguyễn như các bà mẹ vua, vợ vua, con gái vua, cháu vua và cung nhân.
TRẦN MINH TÍCHBên bờ phá Tam Giang mênh mông sóng nước, cách thành phố Huế khoảng chừng hai mươi cây số về phía đông nam có vùng đất bạt ngàn cát trắng, nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược là cái nôi của cách mạng, hàng bao nhiêu hạt giống đỏ được ươm mầm để nhân rộng ra các vùng đất khác, tên gọi của xã vùng cát anh hùng đó là Phú Thạnh bây giờ là Phú Đa.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNThừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.
LIỄU THƯỢNG VĂNQuả thực đã nổi lên sự phong phú đặc biệt khi đứng ở góc nhìn tập trung, tế nhị, để điểm lại một số ảnh hưởng lớn, khó phai nhòa của họ, những khuôn mặt Nữ lừng danh của vùng đất Thuận Hóa.
TRẦN XUÂN THẢOKỷ niệm năm sinh thứ 160 của Tôn Thất Thuyết (1839 - 1999)
BỬU ÝKhi nghe dóng lên câu hỏi: “Người Huế, anh là ai?” có lẽ cùng chẳng ai buồn giật mình hay ngạc nhiên làm gì. Bởi lẽ cái chân dung sẽ được phác hoạ ra chắc chẳng có gì độc đáo. Ai nấy đều đã biết rồi, đã gặp rồi, đã gặp khắp nơi là đằng khác. Dù sao, đây cũng thuộc loại hình ảnh cũ kỹ trong cuốn album gia đình mà anh chị em thường táy máy giở đi giở lại vậy.
N. I. NIKULIN*Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Và lòng đầy xúc động tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.
LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.