LÊ THANH NGA
Tùng Bách, theo tôi, thuộc số nhà thơ có cá tính. Thơ anh không màu mè theo đuổi cuộc cách tân tưng bừng hiện nay, cũng không khư khư ôm lấy những cách thể sáng tác có phần cũ nhàm nhân danh truyền thống. Anh có một lối viết riêng, rất khó lẫn. Tôi gọi đó là phong cách dân gian hiện đại.
Thực ra thì không phải ở Việt Nam, mà hầu khắp trên thế giới, nền văn chương nào cũng sản sinh ra những tác giả, mà nghiên cứu các sáng tác của họ, có thể thấy phảng phất hay đậm đặc tinh thần của những sáng tạo dân gian theo quy luật di truyền của chính bản thân văn học. Tuy nhiên, cần phải chú ý là không phải bất cứ tác giả nào cũng có thể biến mình thành một kẻ kế thừa được cái phần tinh túy của dân gian, hay lấy cái gì đó của dân gian biến thành cái tinh túy của mình, mặc lòng sau những ồn ào cự tuyệt với truyền thống của văn chương hiện đại, càng ngày càng chứng kiến sự xuất hiện của nhiều tác phẩm, mà ở đó tác giả của nó đã nỗ lực rất nhiều trong hành trình tìm về cội nguồn văn hóa, văn học dân gian. Ở Việt Nam, từ sau 1986, cội nguồn dân gian đã trở thành mạch ngầm trong sáng tác của nhiều tác giả. Trong lĩnh vực văn xuôi, có thể kể đến Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phạm Trung Khâu, Hòa Vang, Phạm Hải Vân, Lưu Sơn Minh, Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Minh Tường, Đỗ Minh Tuấn…; Trong thơ, có thể kể đến Nguyễn Bảo Sinh, Đồng Đức Bốn, Bùi Giáng, Hoàng Cầm, Inrasara… Và ngay cả những người được coi là đổi mới mạnh mẽ nhất như Mai Văn Phấn, Nguyễn Thế Hoàng Linh…, người ta vẫn thấy chất dân gian, như một hoài niệm về quá khứ, như một khoảnh khắc hiện về của ký ức cộng đồng.
Cội nguồn văn hóa, văn học dân gian dường như đã trở thành một dấu hiệu quan trọng để nhận diện đặc điểm thơ Tùng Bách với biểu hiện khá phong phú. Điều này hẳn có nguyên nhân của nó. Ngay cái tên miền sinh mà anh giới thiệu ở bìa sách đã cho thấy bản thân tác giả vẫn còn nặng nợ lắm với dân gian: làng Đông, xóm Kim Sơn, xã Sơn Bằng, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Hai chữ “làng Đông” được xướng lên ngay lập tức dấy lên hoài niệm về một địa chỉ rất xa xôi của làng mạc, quê kiểng, cũng là gợi nhắc người đọc về một vùng thẩm mỹ quen thuộc từ ca dao, dân ca, cho đến cả khi Nguyễn Bính mang nó đem vào tuyệt bút của mình:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông…
Nói như thế để thấy dường như cội nguồn văn hóa dân gian của một vùng đất học1 thấm sâu vào gốc rễ tư tưởng, tình cảm của Tùng Bách, từ đó chi phối một cách mạnh mẽ đến tư duy và diễn ngôn của nhà thơ. Thêm nữa, Tùng Bách thuộc “thành phần” lưu lạc “tứ chiếng” (sinh ở Hương Sơn, làm văn, làm báo ở Vinh rồi “dạt vòm” vào tận Vũng Tàu, sau quay lại sống một góc chợ ga Vinh), đã vậy, lại làm thơ, làm báo, đọc nhiều, đi nhiều. Sự đọc và sự đi ấy dường như là một nỗ lực góp phần biến anh thành con người nhạy cảm, bên cạnh cái nhạy cảm và thông minh (có lẽ) bẩm sinh. Sự đọc và sự đi cùng việc làm thơ, làm báo ấy, có lẽ cũng đã biến Tùng Bách thành một kẻ lãng du, bụi phủi, thành một kẻ lữ hành (đôi khi là độc hành) trong cõi nhân gian không hề “bé tí”2 này. Thơ Tùng Bách vì thế, có chút dân gian làng xã, có chút dân gian kẻ chợ, có chút dân gian củ mỉ cù mì, lại có chút dân gian ranh mãnh, láu cá, lịch sự, tế nhị, có vẻ dễ đọc mà không dễ đọc tí nào, và cũng khiến con người thơ trở nên phức tạp, nông sâu khó lường…
Chất dân gian trong thơ Tùng Bách, trước hết có lẽ ở hệ đề tài, chủ đề. Đọc 51 bài trong Vừa hót vừa bay, rất khó để tìm ra một bài viết theo đề tài quan phương. Tùng Bách chỉ kể những câu chuyện thế sự, có khi “vặt vãnh”. Nhưng cái “vặt vãnh” ấy luôn gợi ép người đọc phải day dứt, phải suy tư về một điều gì đó dường như là nghiêm trọng của nhân sinh. Điều này thể hiện ngay trong mỗi tên bài: Đời, Ngẫm và nghĩ, Tự tại, Đêm qua, Say, Chụp cắt lớp nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, Niềm vui lớn lao, Nốt ruồi trên ngực, Bạn Hưu, Kí ức làng Lòi, Nghe lỏm ở ga Nam Định, Tếu táo ở trại viết Tam Đảo… Và ngay trong mỗi đề tài ấy, nhà thơ cũng có cách viết khác, cách nói khác, từ sự triển khai ý tứ đến việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, lập luận. Tỉ như “say”, vốn là câu chuyện bình thường, nhưng được khởi từ những cây đại bút, qua nhiều thế kỷ, cũng đã trở thành một đề tài có phần quan phương. Từ Lý Bạch, Cao Bá Quát đến Vũ Hoàng Chương, đến Thạch Quỳ, Nguyễn Trọng Tạo… và bao nhiêu văn thi sĩ khác của phương Đông và Việt Nam, mỗi người một kiểu say, một cách say, nhưng là say thật, say có rượu, say có men, say có chuếnh choáng, say có “cờ đèn kén trống” kiểu say. Tùng Bách cũng say, nhưng là:
Bạn ước
Sông Hương hóa rượu
Ta lo
Rượu hóa sông Hương
Tưởng chỉ chuyện tầm phào nhăng nhít Lại bận lòng đến khách văn chương.
(Say - tr.12)3
Đấy là một kiểu vừa dân gian hóa, vừa cá nhân hóa đề tài vốn đã trở thành phổ biến và ít nhiều mang tính quy phạm trong văn học. Cũng cần chú ý rằng, trong các sáng tác của Tùng Bách, có những đề tài được “dân gian hóa”, nhưng cũng có những đề tài được gợi hứng từ dân gian hoặc đích thực là đề tài thuộc cội nguồn văn hóa - văn học dân gian, cổ truyền hoặc hiện đại: câu chuyện thầy bói xem voi (Vĩ thanh chuyện Thầy bói xem voi), tên một làng quê (Làng Treo), huyền thoại về một ngôi làng đặc biệt (Làng Lòi)… Nhưng với đề tài nào, Tùng Bách cũng thổi vào đấy một suy tư mới, và quan trọng là khác, theo cách của mình. “Vĩ thanh” của câu chuyện Thầy bói xem voi là một cú “bẻ lái” tư duy cực kì dí dỏm và không kém phần chua xót về phận người; “cổ tích” về làng Treo gợi nhiều ngẫm nghĩ về xử thế, chuyện làng Lòi được viết nhiều, trong thơ ca và trong phóng sự, kí sự, nhìn chung đều bày tỏ một ít chua xót, một ít ngưỡng mộ, một ít sẻ chia với thân phận những nữ thanh niên xung phong, bộ đội, dân công hỏa tuyến… quá lứa lỡ thì vì “hiến dâng cho Tổ quốc”, nhưng với Tùng Bách, không chỉ có thế. Nhà thơ đã đẩy những suy tư của mình đi xa hơn. Anh dường như muốn quan sát, phân tích đối tượng thẩm mỹ một cách “người hơn”:
Con không cha thì mắc mớ chi ai
Bày đặt lườm với nguýt
Chị em ta vốn dĩ anh hùng
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Lòng vả xem chừng có khác lòng sung.
(Kí ức làng Lòi - tr. 34)
Chất dân gian trong thơ Tùng Bách toát ra không chỉ từ hệ chủ đề, đề tài, mà còn, thậm chí rất quan trọng, ở hình thức tư duy. Đó là tư duy phản biện, tư duy ngược. Không được coi là chính thống, văn học dân gian trước đây không cùng “chung mâm” với văn học viết, vì là “bình dân”, vì là vân vân. Thế là, nó lặng lẽ tạo cho mình một sự khác biệt, một sự đối lập với những gì gọi là chính thống. Văn học dân gian, nhất là trong ca dao, thành ngữ và truyện cười, truyện trạng, dường như luôn nỗ lực chọc thủng “phòng tuyến” quan phương của văn học viết, và cả xã hội quan phương nữa, bằng phản biện, bằng đả kích, bằng châm biếm… Thơ Tùng Bách dường như luôn có xu hướng nói ngược lại, suy tư ngược lại, “tranh cãi” với những giá trị mặc định hoặc bàn đến nó với chất giọng trào tiếu dân gian, vừa sâu cay, vừa hóm hỉnh lại vừa đau xót. Dĩ nhiên, cách thế ấy là sản phẩm của quá trình trải nghiệm, va đập và do vậy, là quá trình nhận thức:
Mọi con đường đều dẫn đến La Mã
Trước tôi tin Giờ thì không!
Đời người không ai tắm hai lần trên một dòng sông
Trước tôi không tin
Giờ không tin không được
(Ngẫm và nghĩ - tr. 7)
Thương thay đàn chim hạc
Bốn nghìn năm chưa ra khỏi trống đồng
Cây ngay thì bóng tròn
Còn để xem mặt trời có đứng ngọ không đã.
(Hai câu - tr. 51)
Xem ra, với lối suy tư ấy, tất cả những gì đã được xác định đều có thể được xem lại. Câu chuyện trống đồng chim hạc và câu thành ngữ “cây ngay không sợ chết đứng”, qua thơ Tùng Bách, đã bị đặt vào một tình thế khác. Nó “đá xéo” truyền thống, nó “cự cãi” với truyền thống. Điều này hẳn cũng có ý nghĩa thức tỉnh nhất định đối với những cá nhân lỡ bị buộc chặt vào những lề luật, những điển phạm, không có cơ hội để bộc lộ tinh thần tư duy riêng biệt. Thơ Tùng Bách không thiếu vắng những suy tư mang màu sắc trữ tình với chiều sâu của sự nghiêm nghị, nhưng nổi bật hơn cả, trong cảm nhận của tôi, là lối tự sự trào tiếu dân gian. Để được như thế, người làm thơ phải hội đủ sự thông minh (thậm chí là cả chút láu cá), có năng khiếu hài hước, sự trải nghiệm, khả năng phân tích đối tượng thật tinh tế. Đặc sắc của trào tiếu là khiến người ta có thể lâm vào trạng thái vừa đau xót, vừa vui vẻ, “vừa buồn cười vừa sợ”, trào tiếu dân gian vừa cay nghiệt vừa độ lượng, vừa đóng vai dì ghẻ vừa đóng vai tiên bụt. Trào tiếu của Tùng Bách có lẽ đã đạt đến tầm mức này. Đôi khi sự trào tiếu của Tùng Bách lại xuất hiện như một niềm giải tỏa, an ủi đúng lúc. Làng Lòi là địa chỉ của xót thương, nhưng địa chỉ ấy vào thơ Tùng Bách, bên cạnh sự day dứt niềm thương xót là cái nhẹ bồng trào tiếu, thậm chí là một chút “nhại”:
Trẻ con làng Lòi nỏ đứa mô có cha
Làng không cha có mà làng Gióng
Rứa đã chộ đứa mô thành Phù Đổng
Phù Đổng, thế nào rồi cũng Thiên Vương
Tôi từng đến làng Lòi, mục kích sở thị
Trẻ con làng Lòi tuấn tú khôi ngô
Biết giúp mẹ quét nhà, nhặt rau, rửa đọi
Ngoan như cháu ngoan Bác Hồ
(Ký ức làng Lòi; tr. 34-35)
Cũng dễ thấy cùng với lối tự sự dân gian và vân vân, chất dân gian trong thơ Tùng Bách còn được tạo thành bởi chất liệu dân gian bỗ bã, ở sự xuất hiện của lời ăn tiếng nói dân gian, của phương ngữ, khẩu ngữ, tiếng lóng. Nếu lời ăn tiếng nói dân gian4 tạo nên chất truyền thống và tính chất liên văn bản thì phương ngữ, khẩu ngữ, biệt ngữ, tiếng lóng… lại tạo nên tính chất bông phèng hiện đại trong thơ Tùng Bách. Có thể thấy dấu vết của văn học dân gian qua lối nói như “cái ngủ” (“Cái ngủ không ngoan - cái ngủ ngọ ngoạy/ Cái ngủ chỉ ngà ngà” - Đêm qua; 11), cách ví phận người với cái kiến (“Thân cái kiến, vẫn là thân cái kiến/ Cái kiến biến thành vua/ Cái kiến biến thành tù” - Xin được sẻ chia, tr.19. Lưu ý là câu “Bính biến vi tù” khởi từ khoa tử vi phương Đông, nhưng lâu dần cũng đã bị dân gian hóa. Và cách nói của Tùng Bách khiến cảm giác dân gian hóa càng sâu sắc). Hoặc câu “Bốn thằng con đực rựa/ Vặc nhau như chó mèo” ở bài Niềm vui lớn lao (tr.27), chẳng hạn, thì “đực rựa” hay “chó mèo” đều là những danh xưng hoặc sự mô tả một hiện tượng “mất đoàn kết” vốn có nguồn gốc dân gian (thành ngữ: như chó với mèo), nhưng bản thân nó cũng đã được hiện đại hóa và thêm một lần nữa hiện đại hóa trong thơ Tùng Bách bởi bối cảnh dụng ngữ. Việc sử dụng tiếng địa phương, khẩu ngữ, biệt ngữ, tiếng lóng là rất phổ biến trong thơ Tùng Bách, kiểu: “Súng bắn vào đầu chẳng có gì mới lạ, thế nên hắn đếch bóp cò”, “Hắn ra ga Hàng Cỏ nhảy tàu Vinh” (Chụp cắt lớp nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo); “Chồng vợ ái ân sợ tòi thêm em bé, khổ!” (Ám ảnh); “Bèn quát to: Như rứa/ Chúng bay ngủ treo à!” (Sự tích làng Treo), “Tây gì! Quái quỷ Tây Ninh” (Bạn Hưu); “Trẻ con làng Lòi nỏ đứa mô có cha” (Ký ức làng Lòi); “Chỗ nhà em xuôi Phủ Lý/ Bình bịch vi vu mấy hồi” (Nghe lỏm ở ga Nam Định)…
Trên bình diện thể loại, từ cấu trúc bài đến cấu trúc câu, thơ Tùng Bách đều có thể dẫn người đọc trở về với kí ức của văn chương làng xã. Đấy là âm hưởng của đồng dao, của lối tự sự bằng thơ dân gian trong các bài Thung thăng chiều5, Miền em, Sự tích làng Treo…, hoặc trong cấu trúc, lối nói ở các đơn vị câu. Đây là kiểu đồng dao hiện đại:
Thôi thì cứ mặc
Nước chảy bèo trôi
Hèn sang sướng khổ
Cũng một kiếp người
Hãy khoan phổng mũi
Vỗ ngực con trời
Cười người hôm trước
Hôm sau người cười
(Thung thăng chiều, tr.48)
Còn câu sau đây gợi nhớ bài Đội gạo lên chùa:
Tuổi ngót nghét chín mươi, nỏ mấy khi ra khỏi ngõ
Kim cổ đông tây gì cũng tỏ
Hỏi không ma xó6 thì là ma gì?
Ông Đỉnh nghe ông Đỉnh cười khì7
(Dáng khắc khổ, ông cười trông như khóc)
(Một ngày nào đó, tr.75)
Tóm lại, trong khi mà, thơ in ra như nước, số người thành nhà thơ hoặc muốn thành nhà thơ cũng dần dần “như nước”, bất luận hay hoặc không, nhà thơ cứ tạo cho mình một lối viết thật riêng là quý lắm rồi. Nếu riêng và hay thì lại càng quý nữa. Phong cách, cá tính của thơ Tùng Bách, một phần rất quan trọng, được làm nên từ chất dân gian - một kiểu dân gian hiện đại, biểu hiện trên nhiều bình diện. Đây là kết quả tất yếu của sự ám ảnh dân gian từ trong máu thịt quê hương, từ sự từng trải, phiêu lãng và tất nhiên, trên hết vẫn là ý thức tạo ra sự khác biệt trong khát vọng thẩm mỹ của nhà thơ.
L.T.N
(TCSH46SDB/09-2022)
------------------------------
1 Huyện Hương Sơn trước đây thuộc phủ Đức Quang, vốn nổi tiếng là một vùng đất học. Thời trung đại, Hương Sơn có đến 20 vị đại khoa. Ở đây có nhiều dòng họ khoa bảng nổi tiếng như Đinh Nho, Tống Trần, Hà Huy, Lê Khánh, Nguyễn Khắc, Đào Duy, Lê Xuân, Văn Đình, Đặng Trần… nay có nhiều người thành đạt có mặt khắp nước và nhiều nơi trên thế giới, riêng về văn chương, Hương Sơn cũng có thể coi là mảnh đất của văn chương, với một làng có đến hai hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hương Sơn cũng là quê hương của đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà quản lí, tướng lĩnh… tên tuổi.
2 Mượn một chút ý tứ của Nguyễn Khải từ Một cõi nhân gian bé tí.
3 Tất cả các trích dẫn thơ Tùng Bách trong bài viết này đều lấy từ tập Vừa hót vừa bay, Nxb. Thanh Niên, 2014.
4 Khái niệm “lời ăn tiếng nói dân gian” ở đây được chúng tôi sử dụng với tư cách là một thuật ngữ khoa học, nội hàm của nó chỉ một số thể loại không thuộc các thể loại có diện mạo rõ ràng, hoàn chỉnh như truyện, ca dao; lời ăn tiếng nói dân gian gồm tục ngữ, thành ngữ…
5 Tên bài thơ đã gợi nhớ câu ca dao, có lẽ là của dân gian xứ Nghệ: “Trời mần một trận thung thăng/ Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông”.
6 Đây là kiểu chơi chữ đậm chất dân gian, cũng gặp nhiều trong thơ Tùng Bách.
7 Gần với kiểu diễn đạt: “Ông Thích Ca ngoảnh mặt cười khì” trong bài ca dao Đội gạo lên chùa.
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH