Cuốn "Kinh thành Huế" của Phan Thuận An là cuốn cẩm nang rất quý về lịch sử kiến trúc kinh thành Huế

09:26 01/06/2009
NGUYỄN VĂN HOAVì có thú chơi sách và đi du lịch nên tôi có thú vui sưu tầm sách. Nhờ vậy mà trong tủ sách cá nhân của tôi đã có trên 100 đầu sách về Huế, nhất là của tác giả sinh sống ở Huế, ví dụ cuốn Thần kinh Nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị,  do Phan Thuận An, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải, Nguyễn Phước Hải Trung biên soạn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và Nhà xuất bản Thuận Hoá xuất bản, Huế, 1997. Rất may mắn tháng 5 năm 2003, tôi lại có trong tay cuốn Kinh thành Huế của Phan Thuận An (từ dưới xin viết tắt PTA).

Tôi đã nghiên cứu đi, nghiên cứu lại cuốn: "Kinh thành Huế" của PTA do Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế in 1999. Cuốn sách được giải thưởng quốc gia về kiến trúc. Sách in rất đẹp bìa cứng. Sách này tổng cộng 336 trang.

Cuốn sách này còn có 33 bản vẽ minh họa. Mỗi bản vẽ là một thông tin có chọn lọc hữu ích. Vị trí kinh thành ở cố đô Huế, nhờ đó mà biết được các công trình bố trí ven sông Hương, bên trái sông Hương là từ lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, Điện Hòn Chén, Văn Miếu, Chùa Thiên Mụ, Kinh thành Huế và đến tận đồn Mang Cá; còn bên phải sông Hương có lăng Khải Định, lăng Thiệu Trị, lăng Đồng Khánh, lăng Tự Đức, đàn Nam Giao, lăng Dục Đức, núi Ngự Bình...; Tiếp theo là bản đồ Kinh thành Huế; Độc giả tìm thấy biệt thự của Điềm Phùng Thị trên đường Nguyễn Huệ và chúng ta còn tìm thấy nhiều địa chí văn hoá khác của Kinh thành Huế. Thật là quý!

Tác giả đã căn cứ vào những tư liệu đáng tin cậy để chứng minh cho các quan điểm ý kiến nhận định cá nhân. PTA đã chỉ ra những nhầm lẫn của các tác giả trong và ngoài nước và đưa ra kết luận của cá nhân mình, ví dụ: "Kinh thành Huế do người Việt Nam thực hiện" chứ không phải do người Pháp thực hiện như nhiều người ngộ nhận. (Chương 1 trang 59-82). Đây là một trong những thành công của cuốn sách. Nếu không có phương pháp nghiên cứu, kiến thức uyên bác thì không đủ căn cứ khoa học để đưa ra nhận định này. Tại trang 163 PTA đưa ra nhận xét thật bất ngờ thú vị: "Trục chính của Kinh thành Huế lại trệch về phía Đông của núi Ngự Bình" và tác giả rất khiêm tốn: "Chúng tôi chẳng hiểu vì sao".

Tác giả PTA đã dẫn nguyên văn tiếng Pháp, tiếng Anh hoặc chữ Hán Nôm để việc dịch nghĩa cho thật sát và để cho độc giả tự dịch hoặc so sánh với các cách dịch khác của các tác giả khác. Do vậy càng rộng đường tìm hiểu những vấn đề đã rõ hoặc còn tồn nghi trong lịch sử. Điều này thật cần thiết cho độc giả trong và ngoài nước khi tìm hiểu Kinh thành Huế.

Tất cả cuốn "Kinh thành Huế" có tổng cộng 325 chú thích. Điều ghi nhận là các chú thích của PTA khoa học, qua chú thích này, chúng ta có thể biết được tác giả, tên tài liệu, năm công bố, nơi công bố.

Ví dụ tại Huế có các tài liệu công bố từ năm 1914, 1915, 1916, 1924, 1933, 1944, 1960, 1961, 1962, 1963, 1968, 1971, 1973, 1981, 1986, 1993, 1995, 1996, 1997, 1998.

Tại Sài Gòn tài liệu công bố năm 1951, 1960, 1961, 1962, 1967, 1968, 1969, 1971, 1972, 1987.

Tài liệu công bố tại Pháp năm 1932, 1955, 1956, 1978, 1981, 1995, tài liệu công bố ở Hà Nội năm 1959, 1977, 1981, 1983, 1992, 1993, 1996, 1997.

Một cuốn sách dày 322 trang mà có đến 325 chú thích. Mỗi trang có một chú thích. Điều đó chứng tỏ tác giả lao động khoa học rất nghiêm túc. Làm rõ những điều tiền nhân đã nghiên cứu và sau đó nêu thẳng ý kiến của mình. Hoặc so sánh các nguồn tư liệu khác nhau để độc giả khi đọc sách này có thể tìm nguồn tài liệu gốc mà PTA đã đọc.

Về ảnh, tác giả PTA đã sử dụng 153 chiếc ảnh đen trắng hoặc ảnh màu để minh  họa cho các phần viết của mình. Thực tế đó cũng là lịch sử kiến trúc Huế bằng ảnh. Nhờ đó giá trị cuốn sách được nâng cao rất nhiều. Đó là những ảnh chụp trên mặt  đất, những ảnh chụp từ trên máy bay (không ảnh), ảnh có các năm 1898, 1904, 1906, 1914,  1916, 1920, 1922, 1924, 1925, 1930, 1932, 1933, 1935, 1936, 1945, 1960, 1965, 1967, 1968, 1970, 1977, 1994, 1996, 1997, 1998, 1999. Nếu in riêng một cuốn sách về những ảnh trên thì cũng là một cuốn sách cực kỳ quý hiếm. Nhiều ảnh lần đầu tiên tôi được nhìn thấy.

Kiến thức rộng của PTA thể hiện không chỉ viết về Kinh thành Huế mà còn so sánh nó với các thành phố khác của Việt Nam và thế giới (trang 63 về Cổ Loa, trang 66 về thành Hà Nội, trang 67 về thành Gia Định (Sài Gòn), trang 69 về thành Quảng Trị, thành Bắc Ninh; thành Vinh (Nghệ An) 1936, thành Hà Tĩnh 1936; Thành Basancon - Pháp, thành Zamosc Ba Lan...

Số liệu về Kinh thành Huế được tác giả sử dụng đều có nguồn gốc hợp pháp của các chế độ quản lý Kinh thành Huế (Thời Tây Sơn, thời Nguyễn, thời Pháp, thời Việt Nam Cộng hòa, thời CHXHCN Việt Nam). Nhiều số liệu đã được PTA đính chính lại cho chính xác. Lao động khoa học của PTA rất đáng ghi nhận.

Thời gian nghiên cứu của cuốn sách này kéo dài từ 1558 đến nay, suốt chặng dài lịch sử qua nhiều giai đoạn. Nó kéo dài suốt 411 năm. Có các giai đoạn quan trọng mà tư liệu rất hiếm hoi như ví dụ: Tám lần dời dựng thủ phủ của các chúa Nguyễn (1558-1775); Thành Phú Xuân thời quân Trịnh và Tây Sơn (1775-1801). Kinh thành Huế thời tết Mậu Thân 1968.

Qua cuốn sách, có nhiều bài học còn tính thời sự rất cao về giải phóng mặt bằng, ví dụ: Khu công nghiệp An Khánh, Hoài Đức, Hà Tây ba năm không giải phóng được mặt bằng để triển khai khu công nghiệp này. Nhưng qua cuốn sách này chúng ta có học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu của tiền nhân. Ví dụ trang 84 tác giả dẫn: vào ngày 11-5-1803 xây dựng Kinh thành thực sự khởi động. Dân cư tám xã Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo, Thế Lại có ruộng đất bị mở vào thì theo giá văn tự trả tiền lại, nhà cửa thì mỗi hộ cấp 3 (ba) quan, mộ thì mỗi ngôi 2 (hai) quan, còn nhân dân thì được miễn dịch. Lại thấy một xã Phú Xuân ruộng đất gần hết, dời dân xã ấy sang xã Vạn Xuân, cấp ruộng đất cho ở (đất công 3 khoảnh, ruộng công hơn 30 mẫu), lại cho vay tiền 1000 quan để giúp việc chuyển rời. Việc xảy ra đã hai trăm năm (200) mà vẫn còn nguyên bài học nóng bỏng khi nhà nước giải tỏa đất của nhân dân để mở các khu công nghiệp, xây dựng đường sá... trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá.

Nét nổi bật qua cuốn sách này, PTA đã ghi nhận từ khi có chủ trương đổi mới, Kinh thành Huế nói riêng và Cố đô Huế nói chung đã được bảo vệ tôn tạo trùng tu với quy mô lớn nhất từ trước tới nay. Nhờ đó mà Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá thế giới vào năm 1993.

Kinh thành Huế của PTA là một cuốn sách càng đọc càng hấp dẫn, nó xứng đáng nằm vị trí cao trong tủ sách của những cá nhân và gia đình yêu mến Kinh thành và Cố đô Huế.

N.V.H
(174/08-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN VĂN DŨNG

    Huế trong thời kỳ Pháp thuộc đã được quy hoạch, xây dựng một cách bài bản và khoa học. Đặc biệt, nhiều công trình kiến trúc Pháp được xây dựng với sự đa dạng, phong phú về phong cách kiến trúc tạo nên một quỹ di sản kiến trúc có giá trị ở Huế.

  • TS. KTS. NGUYỄN NGỌC TÙNG - ThS. KTS. NGUYỄN THỊ MINH XUÂN - TS. KTS. LÊ NGỌC VÂN ANH

    Khi nhắc đến Huế, hầu hết chúng ta thường nghĩ đến mảnh đất Thần kinh với sự hiện hữu của kiến trúc Kinh thành, Lăng tẩm và cung điện của triều đại nhà Nguyễn cùng với kiến trúc nhà vườn Huế, cảnh quan danh thắng dọc bờ sông Hương.

  • PHAN THUẬN AN

    Cũng như tại hầu hết các thành phố khác ở ba nước Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française), tại Kinh đô Huế, chính quyền thực dân ngày xưa đã thiết lập một khu phố mới theo lối kiến trúc châu Âu, thường được gọi là “Khu phố Tây” (Quartier Européen). Đây là một loại hình di sản kiến trúc ở Cố đô Huế ngày nay(1).

  • NGUYỄN XUÂN ĐỊNH

    Nói đến kiến trúc Huế, dù chỉ một vài đặc điểm (sơ qua), không thể không đề cập đến những người ở Huế. Cho dù những người đó sinh ra ở Huế, hoặc ở xa đến, nhưng đều góp phần xây dựng nên một Huế có hơn ba trăm năm lịch sử.

  • Ngày 1/6, tin từ Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho biết di tích Phu Văn Lâu đã được sửa chữa về nguyên trạng ban đầu, và còn được tăng cường, gia cố tất cả vị trí xung yếu cho công trình.

  • Mức độ độc đáo của mô hình Kinh thành Huế, chùa Thiên Mụ, cầu Trường Tiền... chắc chắn sẽ khiến bạn ngỡ ngàng.

  • Ứng Lăng - lăng Khải Định với những nét pha kiến trúc Tây Phương đã đem lại vẻ mới, lạ, độc đáo, được đánh giá có phần phô trương so với các công trình kiến trúc truyền thống của Việt Nam. 

  • Tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại nội Huế), sau một thời gian nghiên cứu phục dựng, mô hình nghiên cứu Điện Cần Chánh tỷ lệ 1:10 đã hoàn thiện và vừa đưa ra trưng bày.

  • Đàn Nam Giao triều Nguyễn là đàn tế duy nhất còn hiện hữu ở Việt Nam, cũng là đàn tế duy nhất tồn tại trong số nhiều đàn tế cổ ở Huế.

  • Sau khi xây Văn Miếu tại kinh đô Huế vào năm Gia Long thứ 9 (1808), các tỉnh trong khắp đất nước lần lượt xây dựng Văn Miếu tại địa phương. 

  • Cổng tam quan được xem là bộ mặt của một ngôi chùa, bởi tam quan là cổng chính của tự viện. Chư Tăng, tín đồ và du khách ra vào tự viện đều phải qua cổng tam quan này. Do vậy cổng tam quan có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến đời sống tâm linh của các hành giả trong chùa và khách thập phương tín thí đến chùa lễ Phật.

  • QUÁCH TẤN

    Trên tờ Tạp chí Sông Hương (Phụ trương Đặc biệt 2) ra tháng 12-1985 có đăng bài của ông Phan Thuận An nói về Cầu Trường Tiền.

  • PHAN THUẬN ANTrong quá trình hình thành và phát triển đô thị Huế gần 700 năm nay, đô thị này đã trải qua nhiều đợt qui hoạch. Trong đó, đợt qui hoạch vào đầu thế kỷ XIX khi triều Nguyễn xây dựng Kinh đô là đợt qui hoạch qui mô và có giá trị bền vững nhất.

  • TRẦN TUẤN ANHNằm cách trung tâm thành phố Huế 5km về phía Bắc, toạ lạc bên bờ sông Hương ở vị trí Bao Vinh, một thương cảng nổi tiếng của Huế ngày xưa, những ngôi nhà cổ Tứ Giác(1) tại đây được xem như một trong những kiến trúc thuộc địa Pháp khá nổi bật ở Huế. Sự nổi bật thể hiện qua các đặc trưng kiến trúc mang đậm nét Huế, hoà quyện với phong cách kiến trúc Pháp du nhập vào Huế những năm đầu thế kỷ 20.

  • THÁI DOÃN LONGKiến trúc luôn luôn được hình thành phát triển và gắn bó với sự tiến hoá của văn hoá xã hội và lịch sử, bản thân từng công trình và tổng thể toàn đô thị đều ghi dấu thời đại và xã hội nào sinh ra nó.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGHuế là một đô thị hình thành không từ xuất phát điểm hay bối cảnh của một trung tâm có quá trình hội tụ thương nghiệp, trao đổi hàng hoá hay giao dịch thương mãi, mà góp một nét rất riêng trong chân dung đô thị Việt Nam từ nhu cầu xây dựng khu trung tâm chính trị, hành chính quốc gia trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp.

  • PHAN THUẬN ANQuá trình hình thành và phát triển của đô thị Huế thường được chia ra làm 3 thời kỳ với 3 hình thái và phong cách kiến trúc khác nhau: phố cổ, phố cũ và phố mới. Từ "phố cũ" dùng để chỉ khu phố Tây được xây dựng dưới thời Pháp thuộc (1875-1954) ở bờ nam sông Hương. Cung An Định ra đời vào thời kỳ lịch sử ấy.

  • MAI VĂN LỘC (*)Huế được biết đến ngoài sự nổi tiếng của các di sản kiến trúc cung điện, lăng tẩm của triều Nguyễn còn do cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp đã gắn bó hài hoà với sự hình thành đô thị cổ, đồng thời cấu trúc quy hoạch đô thị chặt chẽ tạo nên một sự quyến rũ của thành phố, nơi mà môi trường thiên nhiên và các công trình xây dựng nhân tạo được hoà quyện tạo nên một “bài thơ tuyệt tác về đô thị”.