Con lợn muốn làm vua

15:11 06/02/2019

JOSHUA BROWN (Mỹ)  

“Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”

Tranh Đặng Mậu Tựu

“Con không quan tâm”. Lợn Con nói. “Con sẽ đi để làm vua.” Nói rồi chú lợn con đi vào bếp của mẹ và tự gói ghém cho mình một bữa trưa.

“Con đi đây” chú nói. “Con đi để làm vua.”

“Chúc con may mắn,” Lợn Bố nói. “Con nhớ sớm về thăm bố mẹ nhé.”

Thế là chú lợn con rời nhà ra đi. Chú cứ đi mãi, đi mãi, băng qua nhiều đồi núi thung lũng.

Chẳng bao lâu đã đến giờ ăn trưa. Chú lợn thấy bụng đói cồn cào khi loay hoay tìm chỗ dừng lại để ăn. Đột nhiên chú nghe có tiếng ai đang khóc. Chú nhìn sang trái. Chú nhìn sang phải. Và kia, xa xa phía trước con đường có một ông lão đang ngồi khóc.

Chú lợn tới gần ông lão và hỏi. “Xin lỗi thưa ông, sao ông lại ngồi đây khóc vậy?”

“Lão khóc vì lão bị lạc và đói,” ông lão nói. “Sáng nay lão ra đường nhưng rồi bị lạc, không biết lối về nhà. Lão lại rất đói mà chẳng có gì ăn.”

“Không sao ông ạ,” Lợn Con nói. “Cháu có mang theo thức ăn đây và cháu tin chắc là nó đủ cho cả hai ông cháu mình. Mời ông cùng ăn với cháu.”

Và chú lợn con nói đúng. Thức ăn bữa trưa chú mang theo đủ không chỉ cho Lợn Con và ông lão, mà còn cho cả mấy người xung quanh.

Ăn xong ông lão nói: “Xin lỗi Lợn Con, cho lão hỏi cháu một câu là cháu đi đâu vậy?”

“Cháu đi để làm vua,” Lợn Con nói.

“Ra thế,” ông lão nói và gật đầu trầm ngâm. “Lão có thể đi với cháu được không?”

“Vâng, được chứ ạ,” Lợn Con đáp.

Vậy là họ đi cùng nhau. Họ cứ đi mãi đi mãi, băng qua nhiều đồi núi thung lũng. Chẳng bao lâu họ đến một con sông. Họ đi dọc bờ sông tìm chỗ để lội qua.

Đột nhiên họ nghe có tiếng ai đang khóc. Họ nhìn sang trái. Họ nhìn sang phải. Và kia, xa xa phía trước con đường, có một ông lão khác đang ngồi khóc sụt sùi.

Lợn Con đến gần ông lão hỏi: “Xin lỗi thưa ông, vì sao ông ngồi đây khóc vậy?”

“Lão khóc vì bị mất cuốn sách,” ông lão nói. “Lão đi dọc bờ sông này, vừa đi vừa đọc sách nên không biết là đang đi tới đâu. Lão vấp phải một tảng đá ngã xuống và cuốn sách bị rơi xuống sông. Lão không biết bơi nên chắc sẽ không bao giờ thấy lại cuốn sách của mình nữa.”

“Cháu có thể giúp ông,” Lợn Con nói. “Cháu có thể bơi được và sẽ tìm lại cuốn sách cho ông. Ông hãy ngồi đây đợi với bạn cháu, cháu sẽ trở lại ngay.”

Nói rồi Lợn Con nhảy xuống sông. Bùm, nước sông lạnh quá. Chú hít một hơi thở sâu. Rồi một hơi thở nữa. Và đến khi hít hơi thở sâu nhất thì chú đã lặn xuống được đến tận đáy sông. Chú bơi bơi và vừa khi hơi thở sắp thoát ra thì chú nhìn thấy cuốn sách. Lợn Con bơi trở ngược lên mặt nước.  Chú hít một hơi thở sâu. Rồi một hơi thở nữa. Và đến khi hít hơi thở sâu nhất, sâu hơn cả hơi thở lần trước, thì chú đã lặn xuống lại được đến tận đáy sông.

Chú bơi bơi tới chỗ chú đã nhìn thấy cuốn sách. Hơi thở chú sắp thoát ra khi chú chạm được nó. Chú túm lấy cuốn sách và cố bơi thật nhanh trở lên mặt nước, ngay trước khi hơi thở thoát ra.

Chú đã làm được. Lợn Con bơi về phía bờ sông và trèo lên. Chú đi lại chỗ hai ông lão đang ngồi chờ và đưa cuốn sách cho ông lão thứ hai.

“Ôi, lão cám ơn Lợn Con,” ông lão nói. “Nói cám ơn mấy cũng không đủ. Nhưng cháu có thể cho lão biết là cháu đang đi đâu vậy?”

“Cháu đi để làm vua,” Lợn Con nói.

“Ra thế,” ông lão nói và gật đầu trầm ngâm. “Lão có thể đi với cháu được không?”

“Vâng, được chứ ạ.” Lợn Con đáp.

Thế là ba người đi cùng nhau. Họ đi mãi đi mãi, băng qua nhiều đồi núi thung lũng. Chẳng bao lâu họ đến một khu rừng âm u, mịt mùng. Họ đi theo lối mòn chạy dọc bìa rừng.

Đột nhiên họ nghe có tiếng ai đang khóc. Họ nhìn sang trái. Họ nhìn sang phải, tìm nơi tiếng khóc phát ra. Và kia, xa xa phía trước con đường, có một ông lão đang ngồi khóc.

Lợn Con lại gần ông lão hỏi. “Xin lỗi thưa ông, vì sao ông ngồi đây khóc vậy?”

“Lão khóc vì lão đi đến mép rừng này cùng với con chó của lão thì có một chuyện khủng khiếp xảy ra. Con chó là người bạn thân nhất trên đời của lão thế mà có một con quỷ từ trên cây nhảy xuống cắp nó đi mất. Hắn bảo lão là hắn đang đi tìm mồi cho bữa sáng mai. Bây giờ lão không biết phải làm gì và chắc là lão không bao giờ còn thấy lại được con chó của mình nữa.”

Chuyện này đúng là khủng khiếp. Lợn Con nói: “Xin ông hãy đợi ở đây cùng với hai người bạn cháu. Cháu sẽ xem có thể làm được gì giúp ông.”

Lợn Con chạy vào nơi âm u, mịt mùng nhất của khu rừng, nơi lũ quỷ thích sống nhất. Và quả thật, ở đó có nhà của con quỷ.

Lợn Con ghé nhìn qua cửa sổ. Chú thấy con quỷ có nhà, nhưng đang ngủ say. Ở trong góc xa chú chó tội nghiệp bị nhốt trong một cái cũi đang run lẩy bẩy vì sợ hãi.

Lợn Con nhón chân đến bên cửa trước, nhẹ nhàng mở ra. Chú nhón chân đi vào nhà và tới bên cái cũi.

“Cậu bình tĩnh nhé,” chú nói với con chó, “tớ đến đây là để giải thoát cho cậu.”

Lợn Con mở cửa cũi thật khẽ khàng. Sau đó chú và con chó nhón chân đi ra cửa. Khi đã ra ngoài nhà cả hai chạy thật nhanh về chỗ Lợn Con dặn ba ông lão ngồi chờ.

Nhưng họ đã không ở đấy nữa.

Lợn Con nhìn sang trái. Rồi chú nhìn sang phải. Và biết chắc cả ba ông lão đã bỏ đi.

Ngay ở phía trước Lợn Con thấy có một đống lửa. “Có lẽ chắc sẽ có ai đó giúp mình,” chú tự nhủ khi đến đó.

Ngồi quây quần bên đống lửa là ba vị phù thủy. “Xin lỗi, các vị có thấy ba ông lão ở đâu không?” Lợn Con hỏi.

“Xin chào Lợn Con,” một vị phù thủy nói. “Bọn ta là ba ông lão mà cậu tìm kiếm đây.”

“Nhà vua đã qua đời và không có ai thừa kế ngai vàng.” Vị thứ hai giải thích.

“Vì vậy chúng tôi đã quyết định làm ba phép thử để tìm ra vị vua kế tiếp,” vị thứ ba tiếp lời.

“Nhà vua phải độ lượng mới có thể cai trị được. Cậu đã độ lượng chia sẻ bữa trưa của mình với ta, ngay cả khi ta là người lạ với cậu.” Vị phù thủy thứ nhất nói.

“Nhà vua phải có trái tim nhân hậu mới cai trị tốt được. Cậu cũng không biết ta nhưng đã cứu cuốn sách của ta vì cậu biết nó có giá trị lớn đối với ta. Điều đó cho ta thấy cậu đầy lòng nhân hậu.” vị thứ hai nói.

“Và nhà vua cần phải có lòng dũng cảm,” vị thứ ba nói. “Cậu đã liều mình cho người khác. Cậu đã không sợ con quỷ hung dữ để cứu sống người bạn thân thiết của một người hoàn toàn xa lạ,” vị thứ ba nói.

“Vì vậy chúng tôi nhất trí để cậu làm vua,” ba vị phù thủy đồng thanh nói.

Và đó là câu chuyện chú lợn con đã trở thành vua như thế nào.

Ngân Xuyên (dịch từ tiếng Anh).  
(TCSH360/02-2019)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.