JOSHUA BROWN (Mỹ)
“Con sẽ làm vua!” một chú lợn con nói với bố mẹ.
Lợn Mẹ mỉm cười nhìn con. “Làm sao con có thể thành vua được khi con chỉ là một chú lợn con?”
Tranh Đặng Mậu Tựu
“Con không quan tâm”. Lợn Con nói. “Con sẽ đi để làm vua.” Nói rồi chú lợn con đi vào bếp của mẹ và tự gói ghém cho mình một bữa trưa.
“Con đi đây” chú nói. “Con đi để làm vua.”
“Chúc con may mắn,” Lợn Bố nói. “Con nhớ sớm về thăm bố mẹ nhé.”
Thế là chú lợn con rời nhà ra đi. Chú cứ đi mãi, đi mãi, băng qua nhiều đồi núi thung lũng.
Chẳng bao lâu đã đến giờ ăn trưa. Chú lợn thấy bụng đói cồn cào khi loay hoay tìm chỗ dừng lại để ăn. Đột nhiên chú nghe có tiếng ai đang khóc. Chú nhìn sang trái. Chú nhìn sang phải. Và kia, xa xa phía trước con đường có một ông lão đang ngồi khóc.
Chú lợn tới gần ông lão và hỏi. “Xin lỗi thưa ông, sao ông lại ngồi đây khóc vậy?”
“Lão khóc vì lão bị lạc và đói,” ông lão nói. “Sáng nay lão ra đường nhưng rồi bị lạc, không biết lối về nhà. Lão lại rất đói mà chẳng có gì ăn.”
“Không sao ông ạ,” Lợn Con nói. “Cháu có mang theo thức ăn đây và cháu tin chắc là nó đủ cho cả hai ông cháu mình. Mời ông cùng ăn với cháu.”
Và chú lợn con nói đúng. Thức ăn bữa trưa chú mang theo đủ không chỉ cho Lợn Con và ông lão, mà còn cho cả mấy người xung quanh.
Ăn xong ông lão nói: “Xin lỗi Lợn Con, cho lão hỏi cháu một câu là cháu đi đâu vậy?”
“Cháu đi để làm vua,” Lợn Con nói.
“Ra thế,” ông lão nói và gật đầu trầm ngâm. “Lão có thể đi với cháu được không?”
“Vâng, được chứ ạ,” Lợn Con đáp.
Vậy là họ đi cùng nhau. Họ cứ đi mãi đi mãi, băng qua nhiều đồi núi thung lũng. Chẳng bao lâu họ đến một con sông. Họ đi dọc bờ sông tìm chỗ để lội qua.
Đột nhiên họ nghe có tiếng ai đang khóc. Họ nhìn sang trái. Họ nhìn sang phải. Và kia, xa xa phía trước con đường, có một ông lão khác đang ngồi khóc sụt sùi.
Lợn Con đến gần ông lão hỏi: “Xin lỗi thưa ông, vì sao ông ngồi đây khóc vậy?”
“Lão khóc vì bị mất cuốn sách,” ông lão nói. “Lão đi dọc bờ sông này, vừa đi vừa đọc sách nên không biết là đang đi tới đâu. Lão vấp phải một tảng đá ngã xuống và cuốn sách bị rơi xuống sông. Lão không biết bơi nên chắc sẽ không bao giờ thấy lại cuốn sách của mình nữa.”
“Cháu có thể giúp ông,” Lợn Con nói. “Cháu có thể bơi được và sẽ tìm lại cuốn sách cho ông. Ông hãy ngồi đây đợi với bạn cháu, cháu sẽ trở lại ngay.”
Nói rồi Lợn Con nhảy xuống sông. Bùm, nước sông lạnh quá. Chú hít một hơi thở sâu. Rồi một hơi thở nữa. Và đến khi hít hơi thở sâu nhất thì chú đã lặn xuống được đến tận đáy sông. Chú bơi bơi và vừa khi hơi thở sắp thoát ra thì chú nhìn thấy cuốn sách. Lợn Con bơi trở ngược lên mặt nước. Chú hít một hơi thở sâu. Rồi một hơi thở nữa. Và đến khi hít hơi thở sâu nhất, sâu hơn cả hơi thở lần trước, thì chú đã lặn xuống lại được đến tận đáy sông.
Chú bơi bơi tới chỗ chú đã nhìn thấy cuốn sách. Hơi thở chú sắp thoát ra khi chú chạm được nó. Chú túm lấy cuốn sách và cố bơi thật nhanh trở lên mặt nước, ngay trước khi hơi thở thoát ra.
Chú đã làm được. Lợn Con bơi về phía bờ sông và trèo lên. Chú đi lại chỗ hai ông lão đang ngồi chờ và đưa cuốn sách cho ông lão thứ hai.
“Ôi, lão cám ơn Lợn Con,” ông lão nói. “Nói cám ơn mấy cũng không đủ. Nhưng cháu có thể cho lão biết là cháu đang đi đâu vậy?”
“Cháu đi để làm vua,” Lợn Con nói.
“Ra thế,” ông lão nói và gật đầu trầm ngâm. “Lão có thể đi với cháu được không?”
“Vâng, được chứ ạ.” Lợn Con đáp.
Thế là ba người đi cùng nhau. Họ đi mãi đi mãi, băng qua nhiều đồi núi thung lũng. Chẳng bao lâu họ đến một khu rừng âm u, mịt mùng. Họ đi theo lối mòn chạy dọc bìa rừng.
Đột nhiên họ nghe có tiếng ai đang khóc. Họ nhìn sang trái. Họ nhìn sang phải, tìm nơi tiếng khóc phát ra. Và kia, xa xa phía trước con đường, có một ông lão đang ngồi khóc.
Lợn Con lại gần ông lão hỏi. “Xin lỗi thưa ông, vì sao ông ngồi đây khóc vậy?”
“Lão khóc vì lão đi đến mép rừng này cùng với con chó của lão thì có một chuyện khủng khiếp xảy ra. Con chó là người bạn thân nhất trên đời của lão thế mà có một con quỷ từ trên cây nhảy xuống cắp nó đi mất. Hắn bảo lão là hắn đang đi tìm mồi cho bữa sáng mai. Bây giờ lão không biết phải làm gì và chắc là lão không bao giờ còn thấy lại được con chó của mình nữa.”
Chuyện này đúng là khủng khiếp. Lợn Con nói: “Xin ông hãy đợi ở đây cùng với hai người bạn cháu. Cháu sẽ xem có thể làm được gì giúp ông.”
Lợn Con chạy vào nơi âm u, mịt mùng nhất của khu rừng, nơi lũ quỷ thích sống nhất. Và quả thật, ở đó có nhà của con quỷ.
Lợn Con ghé nhìn qua cửa sổ. Chú thấy con quỷ có nhà, nhưng đang ngủ say. Ở trong góc xa chú chó tội nghiệp bị nhốt trong một cái cũi đang run lẩy bẩy vì sợ hãi.
Lợn Con nhón chân đến bên cửa trước, nhẹ nhàng mở ra. Chú nhón chân đi vào nhà và tới bên cái cũi.
“Cậu bình tĩnh nhé,” chú nói với con chó, “tớ đến đây là để giải thoát cho cậu.”
Lợn Con mở cửa cũi thật khẽ khàng. Sau đó chú và con chó nhón chân đi ra cửa. Khi đã ra ngoài nhà cả hai chạy thật nhanh về chỗ Lợn Con dặn ba ông lão ngồi chờ.
Nhưng họ đã không ở đấy nữa.
Lợn Con nhìn sang trái. Rồi chú nhìn sang phải. Và biết chắc cả ba ông lão đã bỏ đi.
Ngay ở phía trước Lợn Con thấy có một đống lửa. “Có lẽ chắc sẽ có ai đó giúp mình,” chú tự nhủ khi đến đó.
Ngồi quây quần bên đống lửa là ba vị phù thủy. “Xin lỗi, các vị có thấy ba ông lão ở đâu không?” Lợn Con hỏi.
“Xin chào Lợn Con,” một vị phù thủy nói. “Bọn ta là ba ông lão mà cậu tìm kiếm đây.”
“Nhà vua đã qua đời và không có ai thừa kế ngai vàng.” Vị thứ hai giải thích.
“Vì vậy chúng tôi đã quyết định làm ba phép thử để tìm ra vị vua kế tiếp,” vị thứ ba tiếp lời.
“Nhà vua phải độ lượng mới có thể cai trị được. Cậu đã độ lượng chia sẻ bữa trưa của mình với ta, ngay cả khi ta là người lạ với cậu.” Vị phù thủy thứ nhất nói.
“Nhà vua phải có trái tim nhân hậu mới cai trị tốt được. Cậu cũng không biết ta nhưng đã cứu cuốn sách của ta vì cậu biết nó có giá trị lớn đối với ta. Điều đó cho ta thấy cậu đầy lòng nhân hậu.” vị thứ hai nói.
“Và nhà vua cần phải có lòng dũng cảm,” vị thứ ba nói. “Cậu đã liều mình cho người khác. Cậu đã không sợ con quỷ hung dữ để cứu sống người bạn thân thiết của một người hoàn toàn xa lạ,” vị thứ ba nói.
“Vì vậy chúng tôi nhất trí để cậu làm vua,” ba vị phù thủy đồng thanh nói.
Và đó là câu chuyện chú lợn con đã trở thành vua như thế nào.
Ngân Xuyên (dịch từ tiếng Anh).
(TCSH360/02-2019)
LTS: Trong 24 bài trong tập Cỏ dại của nhà văn Lỗ Tấn do GS. Trần Đình Sử dịch, Sông Hương số tháng 10 năm 2011 đã giới thiệu đến bạn đọc 3 bài “Sau khi chết”, “Sự giã từ của cái bóng” và “Sự run rẩy trên đường đồi bại”. Kỳ này Sông Hương xin giới thiệu tiếp với bạn đọc 4 bài chọn lọc từ Cỏ dại.
VILIAM KHÂYNÊXEN (Đan Mạch)
Khi Lêô tỉnh giấc, trong tai anh vẫn còn vang lên những lời của ông giáo sĩ giảng đạo.
LGT: Nhà văn, nhà nghiên cứu sử học và văn hóa Mỹ Jon Holmes sinh ra tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng công nghệ Texas nơi ông từng tham gia phong trào nhân quyền và phản chiến, Jon Holmes chuyển đến New York làm việc cho một tạp chí nhiếp ảnh và phụ trách một chương trình sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sĩ hiện đại cho một đại công ty ở Bos- ton.
KNUT HAMSUN (*)
Do tôi viết. Viết vào ngày hôm nay cho trái tim vơi nhẹ đi. Tôi đã mất chỗ làm ở tiệm cà phê cùng những ngày sung sướng của tôi. Tất thảy mọi thứ, tôi đã mất hết. Và tiệm cà phê ấy là tiệm cà phê Mắcximilăng.
HENRY JAMES
(Tiếp theo Sông Hương số 290 tháng 4/2013)
Một buổi sáng (tôi cho là ở gần La Spezia) Harold đang vẽ bên gốc cây, không xa quán trọ, tôi ngồi cạnh, lớn tiếng đọc Shelley(18) - người có thể chứng tỏ được trìu mến hơn bất cứ ai.
ELENA PUCILLO TRUONG
Nỗi khắc khoải đã kéo dài từ bao lâu?
Có lẽ một năm. Quá nhiều. Lấy cớ đi vào toilette, hai tay tôi nắm chặt chiếc bồn rửa mặt trong nhà hàng như muốn bẻ làm đôi. Bao nhiêu bức bối đang dồn vào trong... bao nhiêu đau đớn... đau đến nỗi tôi không dám ngẩng mặt nhìn bóng mình trong gương.
Henry James (1843 - 1916), nhà văn Mỹ viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học và nghệ thuật Pháp. Ông định cư ở Londres, Anh từ 1876. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009), nội dung thể hiện ở nhiều chủ đề như: ý thức, tâm lý, mơ mộng, tình cảm, vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.
FRANÇOIS CHENG
(Trích từ tác phẩm Khi những linh hồn lang thang trở về)
Dưới gầm trời này, dưới cái gầm trời rất thấp này, tất cả đều có thăng có trầm, tất cả đều bị biến đổi. Tác phẩm về Những đột biến đã chỉ rõ điều đó, tổ tiên chúng ta đã nói: “Cứ năm năm thì có chuyển biến nhỏ, cứ năm trăm năm thì có đại đột biến”.
L.T.S: Sherwood Anderson (1876 - 1941) là nhà văn lớn của Mỹ. Ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, và thường tỏ thiện cảm với những lực lượng vô sản cách mạng Mỹ, đặc biệt là trong những năm 1931 - 1935. Truyện ngắn "Những ngọn đèn chưa thắp" (Unlighted Lamps) của ông dưới đây được liệt vào một trong những chuyện ngắn xuất sắc trong nền văn học Mỹ từ trước đến nay. Câu chuyện về bi kịch nội tâm của những con người không phá vỡ nổi bức tường ngăn cách giữa những tình thân và cho đến khi nhắm mắt vẫn chưa kịp thắp lên ngọn lửa thông cảm.
Elena Pucillo Truong là người Ý, Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài (Đại học Milano Italia). Cô dạy tiếng Pháp và Văn minh Pháp tại Milano từ năm 1982 và gần đây có dạy tiếng Ý tại Nhạc Viện, tại phòng lãnh sự danh dự Ý và tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM.
LGT: Etgar Keret sinh ngày 20/8/1967 tại Ramat Gan, Israel. Nhà văn nổi tiếng với truyện ngắn và kịch bản phim, có ảnh hưởng lớn tới lớp nhà văn trẻ hiện nay ở Israel.
L.T.S: Narayan là nhà văn miền Nam Ấn Độ, sáng tác bằng tiếng Anh. Sinh 10/10 năm 1906 tại làng Madras (mất 13/5/2001), từng sống ở thành phố Mysore cổ kính của quê hương ông.
Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.
HEINRICH BÖLL (CHLB Đức)
(Heinrich Böll sinh 1917, mất 7-85 - giải thưởng Nôbel văn học 1972)
Ngoài các tác phẩm lớn về Việt Nam như Vạn Xuân, Lãn Ông, mấy năm gần đây, nữ văn sĩ Pháp Yveline Feray đã cho ra đời những tập truyện thần thoại và dân gian của các nước châu Á như Việt Nam, Trung Hoa, Campuchia, Tây Tạng. Vào cuối năm 2010, bà đã cho xuất bản tập “Chuyện kể của bà ngoại Ấn Độ”.
AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)
Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.
L.T.S: LANGSTON HUGHES (1902 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch và dịch giả người Mỹ da đen, sinh ở Joplin, bang Missouri. Ông đã xuất bản 35 tác phẩm. Thơ của ông đã được dịch sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông phần lớn tập trung chủ đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giữa người da đen và da trắng tại nước Mỹ. Truyện sau đây dịch trong tập truyện "The ways of white Folks".
Hình ảnh rồng Việt Nam từ xa xưa đã sớm đi vào nghệ thuật với nhiều loại hình khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc, nhiều công trình điêu khắc lấy con rồng làm đề tài đã trở thành những tác phẩm có giá trị văn hóa, trong đó không ít công trình điêu khắc đá được xem như là những tác phẩm mang dấu ấn phong cách nghệ thuật của một thời kỳ.
Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.
LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.