LÊ VĨNH THÁI
Con chim lạc bay về Tổ quốc
Minh họa: Nhím
tuổi nhỏ
mẹ ru nôi câu hò quê hương
ăm ắp
tôi lớn lên
điệu ru vào máu thịt
bản trường ca bất khuất
về dân tộc mình
quê hương
bài giảng lòng yêu nước
mảnh đất nơi tôi sinh nhuốm máu hồng
thuở cha ông
lời mẹ dạy
vườn cây gốc rạ quê hương
à ơ…
bốn ngàn năm
những giọt máu thành sông
con chim lạc hóa hình Tổ quốc
năm mươi lên rừng, năm mươi xuống biển
đất nước
già trẻ, gái trai ra trận
lũ phương Bắc khiếp sợ
cậu bé ba tuổi Thánh Gióng
trận Bạch Đằng máu giặc đỏ sông
ải Chi Lăng vết nát muôn thây
quân hùng bỏ mạng dưới tay người anh hùng áo vải
tướng mạnh chui ống đồng bỏ chạy
chẳng dám quay mặt về nước Nam
dân tộc bốn ngàn năm
đóng đinh vào kẻ thù xâm lược
giờ, nghe quê hương bị lũ quạ diều vây
con cá đưa vô miệng bị giật ngang cuống họng...
quân giặc dẫn mưu đồ xâm lăng
đời làm thơ
thơ chưa trả nợ nước
thân chưa đền ngửa mặt biết nhìn ai
tôi viết bài thơ quê hương
đã nghe vang tiếng kèn hiệu lệnh
con dân Việt giương cung thẳng tiến
nơi biên cương Tổ quốc màu xanh
Trường Sa - Hoàng Sa nay hóa Bạch Đằng
đất nước ra trận
biển cuộn sóng chôn lũ xâm lăng
quê hương
những đứa trẻ lớn lên
bằng bài hát ru nôi của mẹ
dòng sông cuộn sóng bốn ngàn năm kiêu hãnh
chảy trong mình dòng máu hùng anh.
Biển
Ngày ăm ắp giấc mơ biển
Những ban mai chật kín trên mỗi bong tàu
Người úp mặt cưu mang trên đầu ngọn sóng
Dưới lòng sâu một nỗi bao dung
Biển từng ngày vỗ ru sóng về đất mẹ
Của những giấc xanh chín mọng yên bình
Như thuở năm mươi buổi đầu đi dựng nước
Và bão nổi lên từ đêm cường bạo cắm lòng sâu
Những tưởng nhận ra mà quay đầu sám hối
Đã quên đi bao nhân hậu thuở nào
Bầy bại tướng dập đầu được cấp ngựa, thuyền trở về cố xứ
Chánh tà ngàn năm vẫn không nhớ nổi hay sao?
Ngày biển động nổi lên cơn bão tố
Triệu con tim dồn dập ải Chi Lăng
Ngọc Hồi, Đống Đa vang tiếng quân reo mừng thắng trận
Sóng cuộn Ninh Kiều đến cửa Bạch Đằng giang
Biển dậy sóng, từng ngọn nối nhau lao về phía trước
Ầm ầm sục sôi cháy bỏng căm hờn
Lớp lớp cuộn vùi lũ cuồng ngông tận đáy
Thanh bình reo ca hào khí bốn ngàn năm.
(SH304/06-14)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi