Nói vậy, vì tôi có “duyên” quen biết và dõi theo sáng tác của nhà văn đa tài này từ khi chàng còn là sinh viên. Đó là năm 1975, ngay sau ngày đất nước thống nhất, tôi vừa nhập “làng” văn nghệ, ra Hà Nội, đến Đại học Bách Khoa tìm sinh viên Nguyễn Quang Lập trao giải thưởng thơ của Hội Văn nghệ Quảng Bình. Sau đó, tôi luôn được đọc những trang văn “đặc biệt” của Nguyễn Quang Lập, bắt đầu là những truyện ngắn đặc sắc đăng trên Tạp chí Sông Hương. Hai năm liền, Nguyễn Quang Lập được Tạp chí Sông Hương trao giải thưởng: “Người lính hay nói trạng” (Sông Hương số 9 năm 1984) và “Tiếng lục lạc” (Sông Hương số 12 năm 1985). Chính vì thế mà trong Sông Hương số 32 (tháng 7/1988), Kỷ niệm 5 năm Sông Hương ra số đầu tiên, do lúc đó Tổng Biên tập Tô Nhuận Vỹ đang ở Liên Xô, tôi và Thư ký Tòa soạn Thái Ngọc San quyết định chọn trích tiểu thuyết “Những mảnh đời đen trắng” của Lập cùng với bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi nói về mình” của Trần Vàng Sao một thời có “tai tiếng” nhưng nhờ Đổi mới, lại trở thành bài thơ nổi tiếng, năm 2020 được chọn làm nhan đề tập thơ đạt Giải thưởng sách Quốc gia. Chuyện xảy ra thời Bình Trị Thiên còn sum họp một nhà, Sông Hương là tiếng nói của phong trào văn nghệ ba vùng đất “hội tụ” tại Huế. 37 năm đã qua rồi, nhiều người đã biết, nhưng vẫn muốn nhắc lại, nhất là vào lúc “làng” báo chí đang sôi nổi Kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam cũng như sự kiện sáp nhập tỉnh và xã. Ôi! Làm sao quên được Lễ kỷ niệm 5 năm Sông Hương ra số đầu tiên, ngoài những tên tuổi văn nghệ Bình Trị Thiên, lãnh đạo văn nghệ tỉnh bạn và Trung ương, còn có khách từ nước Byelorussia, Hội Người yêu Huế tại Paris.
Tôi nhắc lại sự kiện này còn vì năm đó, lần đầu tôi bình luận về tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Quang Lập khi viết trang giới thiệu “Những mảnh đời đen trắng” trên Sông Hương số 32. Trong bài viết có câu: “…Tôi cứ băn khoăn: Chẳng lẽ anh chỉ theo đuổi các số phận dị thường? Đến lúc cần dựng một nhân vật dung dị, liệu truyện còn sức hấp dẫn không?...”.
Mấy chục năm qua, tôi không viết một bài nào về Lập nữa vì chàng sinh viên Bách khoa 50 năm trước ngày càng nổi tiếng cả với phim ảnh, tạp văn và cả với vai trò nhà báo, khi Lập được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mời ra xây dựng Tạp chí Cửa Việt, rồi ra Hà Nội làm báo Văn Nghệ Trẻ, tôi có viết gì thêm cũng bằng thừa. Nhưng nay, khi Lập đã sắp lên lão bảy mươi, chân đi cà nhắc sau một lần đột quỵ, chẳng còn bay nhảy ham hố chi nữa, tôi lại hăng hái “vào cuộc” vì… bất ngờ với tác phẩm mới của Lập. A! Cái lão nhà văn tưởng là chỉ theo đuổi các số phận dị thường, nay lại viết truyện anh hùng liệt sĩ cho nhà Kim Đồng! Đọc xong tác phẩm, tôi “ngộ” ra một điều: một nhà văn vốn có một giọng điệu riêng như Nguyễn Quang Lập, đã phải trải qua cả nửa thế kỷ học hỏi, trau dồi nghề nghiệp mới viết được một tác phẩm mà tôi tin sẽ có sức sống lâu bền như “Làng ta có một anh hùng”.
Bất ngờ nữa là trong danh sách những người mà tác giả cảm ơn đã cung cấp tư liệu cho Lập viết cuốn sách này có tên người “chỉ huy tầm xa” của tôi là vị tướng lừng danh trên đường Trường Sơn huyền thoại Đồng Sĩ Nguyên (1923 - 2019) và một thủ trưởng trực tiếp của tôi trong năm 1966 - ông Lại Văn Ly (1929 - 2015) - người đã tạo điều kiện cho tôi viết xong tập ký sự đầu tay về cuộc chiến đấu trên đoạn đường chiến lược dưới chân đèo Mụ Giạ: “Vì sự sống con đường” (Nxb. Thanh niên, 1968; Nxb. Thuận Hóa tái bản có bổ sung 2011). Vậy mà đến nay tôi mới biết ông Ly từ năm 1947 - 1948, cũng như liệt sĩ Nguyễn Tiến Nhẫn - nhân vật chính của cuốn sách, từng là thành viên nhóm điệp báo do tướng Trần Quý Hai tổ chức, đã tham gia trận tấn công vào đồn Hoàn Lão những mong giải cứu cho Nhẫn, sau khi anh bị địch bắt. Chính “người kể chuyện” cho tác giả viết nên tác phẩm này cũng bị… bất ngờ. Chương 7 cuốn sách có đoạn: “…Còn nhiều bất ngờ thú vị lắm. Chú Thành làm nghề bốc vác ở bến chợ ga tàu, hiền lành nhu mì, suốt ngày không nói một tiếng, hóa ra là lãnh đạo Việt Minh đầu huyện đầu tỉnh. Chú Vũ bán dao, kéo, rựa ở chợ, vừa bán vừa ngủ, ngáy vang cả đình chợ, hóa ra là chỉ huy bộ đội chủ lực của huyện…” Cả hai đều là cấp trên trực tiếp của anh Nhẫn. Mà bạn có biết không, “Chú Thành”, tức là ông Cổ Kim Thành (1918 - 2005), cũng như ông Lại Văn Ly, sau này là lãnh đạo chủ chốt của Quảng Bình và tỉnh Bình Trị Thiên khi hợp nhất; còn “chú Vũ” tức là tướng Đồng Sĩ Nguyên nổi tiếng.
Cuốn sách còn nhiều bất ngờ nữa, xin nói sau vì chuyện “bên lề” có tính riêng tư mà dài quá rồi. Tuy chỉ là một bài báo, nhưng cái nghiệp văn đã quen đưa “cái riêng” vào trang viết. Mà hình như văn chương, đều thường bắt nguồn từ “cái riêng”, mới dễ chạm đến trái tim người đọc. Thì tác phẩm này của Nguyễn Quang Lập cũng vậy. Bạn đọc phần tiếp sau sẽ rõ. Người liệt sĩ - nhân vật chính của tiểu thuyết được miêu tả chủ yếu từ một góc nhìn riêng tư.
*
Người liệt sĩ ấy có tên thật là Nguyễn Tiến Nhẫn (1929 - 1948), quê làng Phan Long, thị trấn Ba Đồn (Quảng Bình). Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta đã có nhiều anh hùng được Nhà nước phong tặng, đồng thời có rất nhiều người từng lập được những chiến công xuất sắc, nhưng không chính danh là anh hùng, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Người lập chiến công nổi tiếng được cả tướng Pháp kính nể là “Hùm xám” Đặng Văn Việt, khi là sinh viên Trường Thanh niên tiền tuyến Huế đã kéo lá cờ cách mạng đầu tiên lên Kỳ đài Huế trước ngày khởi nghĩa, đến cuối đời chỉ là trung tá! Cũng có khi chỉ do điều kiện không kịp lập hồ sơ, hoặc một đơn vị - trong thời đoạn nào đó, chỉ có thể chọn một anh hùng. Vậy nên chàng thanh niên Ba Đồn hy sinh lúc 19 tuổi, là điệp báo viên khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa bắt đầu - một công việc thầm lặng, bí mật, thành tích không phải ai cũng biết, chưa (hoặc không) được phong tặng danh hiệu anh hùng là điều dễ hiểu.
Vì thế, từ “anh hùng”, đúng ra phải đặt trong ngoặc kép do đây là anh hùng mới được nhà văn Nguyễn Quang Lập phong tặng khi in cuốn sách này. Tuy vậy, đọc xong tác phẩm, tôi xin được tôn vinh người liệt sĩ trẻ tuổi xứng danh là một Anh Hùng viết hoa. Thành tích của anh xứng đáng như thế, chứ không phải do nhà văn tô vẽ, thổi phồng. Chỉ riêng tài trí, công phu trong thời gian anh luồn sâu vào hang ổ địch lấy được kế hoạch 2 đợt càn quét lớn nhằm xóa sổ làng chiến đấu Cảnh Dương anh hùng khiến chúng thảm bại đã là một chiến công đặc biệt xuất sắc. Trận đánh nổi tiếng đã được ghi vào sử sách; tôi đã thử “kiểm tra”, gõ từ “làng Cảnh Dương” thấy ngay bài báo “Làng chiến đấu Cảnh Dương” trên báo “Quân đội nhân dân” ngày 13/12/2006 có đoạn viết:
“…Biết bao lần kẻ thù hung hãn mưu toan “san phẳng” Cảnh Dương nhưng đều thất bại thảm hại. Nổi bật nhất là trận chống càn của quân và dân Cảnh Dương ngày 12/7/1948. Hôm đó, địch tấn công ra Cảnh Dương bằng 3 cánh quân với lực lượng hơn 1.000 tên, 31 xe cơ giới, 12 máy bay và 8 tàu chiến, ca-nô. Cánh thứ nhất từ Ba Đồn theo Quốc lộ 1A đánh vào phía Nam. Cánh thứ hai bằng không quân chở lính dù đổ bộ xuống vùng Tây Bắc. Cánh thứ ba địch sử dụng tàu chiến, ca-nô tấn công bằng đường biển. Sau khi dùng hỏa lực từ biển cấp tập bắn vào làng để uy hiếp, các cánh quân Pháp tiến vào, tạo thành gọng kìm hòng xóa sổ làng Cảnh Dương bất khuất…”.
Nguyễn Quang Lập không hề bịa ra trận đánh lịch sử này; chỉ khác, anh miêu tả với cây bút của một nhà văn có tài, trong đó có công lao của điệp báo viên Nguyễn Tiến Nhẫn. Mặt khác, nhờ công phu sưu tầm tư liệu, qua lời kể của “bà cụ Lê” - một nhân chứng thời đó, tác giả còn cho biết làng Cảnh Dương bị kẻ địch tấn công nhiều lần vì đó là “Cảng Việt Minh”. “Rồi đây sử sách sẽ ghi chép. Chỉ riêng một ngôi làng nhỏ trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã vận chuyển 674 tấn hàng, đã viết nên một cuốn sử lớn… Thời kháng Pháp đó là con số dễ sợ, nể lắm. Cảnh Dương có Binh trạm 11, có Đội vận tải biển 139…”. Bà cụ Lê đã nói như thế ở trang mở đầu trận càn quét dữ dội nhất vào làng Cảnh Dương. Như thế, từ câu chuyện một liệt sĩ, những trang sử anh hùng của một vùng đất nổi tiếng thời Bình Trị Thiên khói lửa vẫn là một kho báu vô tận cho nhà văn sáng tạo. Đó là chưa nói, thời chống Mỹ, những tay chèo kỳ cựu và dũng cảm ở Cảnh Dương là một trong số đội quân mở đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển” tiếp vận cho chiến trường Trị Thiên ruột thịt. Sự tích này tôi được biết chính trong thời gian bắt đầu về làm việc dưới “trướng” ông Lại Văn Ly.
Cho dù vậy, như tôi hiểu, tác giả viết tác phẩm này không nhằm “bổ sung”, làm sáng tỏ thành tích, công lao của người liệt sĩ đã hy sinh từ hơn 70 năm trước. Đúng như Nxb. Kim Đồng giới thiệu, “Câu chuyện về chàng trai ở ngôi làng Phan Long nhỏ bé ven bờ sông Gianh sớm có lòng yêu nước rồi trở thành một tình báo viên trẻ tuổi đã được nhà văn Nguyễn Quang Lập kể lại theo cách đặc biệt của mình…”. “Cách đặc biệt” đó chính là thủ pháp, giọng điệu riêng của nhà văn. Dù vậy, tôi vẫn bất ngờ với tác phẩm mới của Lập. Tôi tin là nhiều người cũng… bất ngờ, nhất là vì tên sách dễ làm bạn đọc tưởng đây là truyện anh hùng mà chúng ta từng quen. Trong “Lời nói đầu”, tác giả viết: “Đây là một sáng tác, một tiểu thuyết được viết với thủ pháp trộn lẫn giữa hư cấu và phi hư cấu…”. Thủ pháp này, nhiều tác giả viết tiểu thuyết lấy nguyên mẫu là những con người có thật. Cái “đặc biệt” - cái tài của Lập là đã tạo ra một không gian nghệ thuật đầy chất lãng mạn, tươi trẻ mà vẫn chân thật, chuyển tải được các thành tích, phẩm chất cốt yếu của người anh hùng.
Nói theo danh từ của học giả Phan Ngọc, cái “mẹo” cao cường của tác giả trong cuốn tiểu thuyết này là mượn đôi mắt trẻ thơ của cô láng giềng Mai Thị Lê, ngày đêm nhìn ngắm chàng Nguyễn Tiến Nhẫn qua khung cửa sổ luôn có cánh bướm vàng bay lượn suốt 19 năm ròng, rồi kể lại cho chúng ta nghe mọi hoạt động của chàng. Rất nhiều câu chuyện vui đùa dí dỏm, nhiều trò nghịch ngợm của nhóm trẻ làng Phan Long: Bộ ba Nhẫn, Lê và Trinh - con nhà tư sản Thuận Đức yêu nước. Nhiều tiểu thuyết đã dựng những mối tình “tay ba” hấp dẫn; nhưng ít có mối tình “tay ba” thơ trẻ cảm động và đẹp như bộ ba Nhẫn-Lê-Trinh. Những trang miêu tả tình yêu của bộ ba này, khi thực khi mơ, lúc thầm kín rụt rè nhưng cũng có phút bồng bột, nồng ấm và thật lãng mạn, nhất là sau những ngày Nhẫn “biệt tích”, hoặc nghe đồn anh bị bắt, nhưng rồi bất ngờ hiện về. Trong chương nhắc lại chiến công của Nhẫn khi làm liên lạc cho “chú Vũ” (tên thật của Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên) từ năm 12 tuổi, anh đã khôn khéo lợi dụng các cây trâm bầu rỗng ruột để làm chỗ ẩn nấp tránh địch, “bà cụ Lê” cho biết: “lâu lâu anh “mất tích” một tuần, rồi bất ngờ xuất hiện trước cửa sổ nhà em. Một tuần vắng anh với em là bảy thế kỷ. Bảy thế kỷ, em ngồi tưởng tượng anh đi về những đâu …”. Trong một lần Nhẫn bất ngờ trở về, “bà cụ” nhớ lại:
“Em sợ anh biến mất, vội vàng kéo tay anh qua cửa sổ hôn lấy hôn để, áp hai tay lên má em.
C’ est lui pour moi, moi pour lui dans la vie…
Anh hát rồi em hát, chúng mình cùng thì thầm hát…”.
Nhẫn đậu Primaire, nói tiếng Pháp cực siêu, nên ông Trần Quý Hai (1913 - 1985; nguyên là Tư lệnh chiến trường Bình Trị Thiên, về sau là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) mới chủ trương “cài” anh vào hàng ngũ địch. Anh ghét thằng Tây xâm lược, nhưng rất thích hát tiếng Pháp rồi dạy cho cô bé láng giềng cùng hát. Thích nhất là bài “La vie en rose” (Đời màu hồng) mà cô giáo Angelie dạy Trường Phủ tập cho cả lớp, trong đó có câu “Anh thuộc về em, em thuộc về anh suốt cuộc đời này”.
Lời kể của “bà cụ Lê”, khi là tiếng nói “người trong cuộc” - đó là những cảnh, những tình tiết “cụ” trực tiếp tham gia lúc còn trẻ; nhưng nhiều khi là sự việc thuật lại theo lời kể của người cùng hoạt động với anh Nhẫn. Cách thể hiện lời kể của bà cụ cũng rất “đặc biệt”, uyển chuyển, khi hư khi thực, lúc lại là giấc mơ… Bạn đọc có thể nghĩ “bà cụ” kể lại chuyện đời xưa cho tác giả nghe, nhưng thật ra, chủ yếu là giọng điệu của “bà cụ” trò chuyện với vong linh người yêu đã hy sinh! Hình ảnh con bướm vàng luôn xuất hiện, khi thực, khi mơ hẳn là biểu tượng sự hiện hữu của tâm linh con người, cả lúc thể xác đã về với cát bụi.
Với một lối viết như thế, tác phẩm trở nên phong phú, sinh động nhờ tính đa chiều, đa thanh.
“Mẹo” tiểu thuyết của Nguyễn Quang Lập còn thể hiện ở kết cấu tác phẩm. Tác giả đã công phu tạo dựng một kết cấu xen kẽ thực - hư trong cả 16 chương sách. Mở đầu mỗi chương là cuộc đối thoại ở thời điểm hiện tại giữa tác giả và bà cụ Lê 91 tuổi - người yêu của liệt sĩ, đang sống tại Thành phố Hồ Chí Minh (một trong hai nhân chứng còn sống đã cung cấp tư liệu cho tác giả và có thể là “nguyên mẫu” của nhân vật này). Đoạn đối thoại này in chữ nghiêng. Ví như mở đầu Chương 7, tác giả hỏi bà cụ Lê:
- Năm 1945, thím 12 tuổi?
- Tuổi “mụ” là mười ba. Ngày đó con gái tuổi mười ba là đến tuổi cặp kê rồi […]. Tui nói với anh Lập rồi mà, tui yêu anh Nhẫn khi còn trong bụng mẹ…
Sau đó là câu chuyện kể của bà với nhiều góc nhìn khác nhau; mặc dù có phần “hư cấu” như tác giả đã “tự thú” trong “Lời nói đầu”; nhưng đoạn đối thoại mở đầu với tính chân thật 100% đã tạo niềm tin cho độc giả suốt cả tác phẩm, trong đó, nhiều sự kiện lịch sử đã được tái hiện một cách sống động như nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu - 1945 hay cảnh dân chúng đón phái đoàn Gô Đa khi Mặt trận Bình dân ở Pháp lên nắm quyền (1936 - 1939), rồi cảnh Nhật đảo chính và những ngày vui sau Cách mạng Tháng Tám. Và chính là khi đọc những trang văn thuật lại những sự kiện nhiều người đã biết với góc nhìn “riêng tư” của các nhân vật, tôi lại bị… bất ngờ do được gặp lại một người quen - anh Hồ Văn Danh (1924 - 2012). Thật không ngờ ông anh thân thiết cùng sống gần 8 năm trời trong những căn “nhà hầm” thời phản lực Mỹ gầm rú suốt ngày đêm tại Trại Cau (nơi sơ tán của Sở Giao thông Quảng Bình), sau tháng 8/1945 là thành viên Ủy ban Cách mạng lâm thời khu vực Phan Long - Ba Đồn, nên được cử phụ trách “Tuần Hội sách báo” trong chuỗi hoạt động sôi nổi Tuần lễ vàng, xóa mù chữ, chống giặc đói ngay khi chính quyền Việt Minh được thành lập. Trong Chương 9 của tác phẩm, “bà cụ Lê” đã nhớ lại:
“Anh và anh Trinh đứng gian báo chí. Nghe anh giới thiệu với bà con, biết anh đã đọc hết các báo Cờ Giải phóng, Tiếng Dân, Phong hóa, Ngày nay… Có lẽ anh đã đọc từ tuổi lên mười. Em được đứng gian sách văn, những Bỉ vỏ, Số đỏ, Tắt đèn, Bước đường cùng… toàn những tiểu thuyết lần đầu em mới thấy […]. Chúa thương em. Cách mạng cũng thương em nốt. Ơn Chúa, ơn Cách mạng, “cô bé da trắng tóc dài” được nhiều người biết đến. Em đi đâu cũng có những cái nhìn theo. Chúa còn thương em khi em được chọn cùng anh, “chàng Phan Long đẹp trai”, nâng ảnh Cụ Hồ ở hội chợ…”.
Đó là lời “bà cụ Lê” kể lại với góc nhìn khi còn là cô bé 12 tuổi. Ôi chao! Chỉ định dẫn một chi tiết “riêng tư” được gặp lại anh Danh trong sách; thế mà lại trích dẫn dài dòng. Cũng bởi… bị lối viết của chàng Lập thu hút, nhưng quan trọng hơn là câu chuyện của cô bé Lê kể lại làm tôi ngộ ra một điều không hề riêng tư và nhỏ bé. Thì ra cái vùng đất Ba Đồn lâu nay “thiên hạ” tưởng chỉ là nơi hội tụ dân buôn bán nổi tiếng với chợ Bò, té ra lại rất văn hóa - văn hóa theo nghĩa đẹp nhất của từ này. Có mấy nơi tổ chức được “Tuần Hội sách báo” ngay sau nạn đói kinh hoàng và dân chúng nhiều người còn mù chữ. Trong sự kiện nhỏ mà đặc sắc này có một chi tiết không nên bỏ qua: Nhà thuốc Thông Dư của ông Lưu Trọng Dư, em trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, là người tài trợ cho Hội sách. Vậy nên vùng quê này mới sản sinh ra khá nhiều người “có chữ”, trong đó chàng liệt sĩ tuổi 19 và cô bé Lê hơn mười tuổi không theo Đạo Ki-tô nhưng lại tin có Chúa, đều biết nói tiếng Tây, thích hát cả “La Marseillaise” Quốc ca Pháp, mà lại hăng hái chống quân xâm lược!
Có lẽ cũng cần nói thêm công phu về mặt ngôn ngữ của tác giả trong tác phẩm này. Như tôi được biết, Nguyễn Quang Lập hình như chỉ học tiếng Nga; riêng việc in nguyên văn các bài hát tiếng Pháp cùng vô số tên vũ khí, đơn vị lính tráng bằng tiếng Pháp có chú thích rất chi tiết đã phải tốn không ít thời gian và tâm sức. Tác giả còn thận trọng trong việc dùng từ địa phương khi đối thoại, hay gọi tên các cây cỏ, trò chơi, địa danh… vừa đủ tạo nên “không khí” truyện, vừa không “làm khó” cho bạn đọc rộng rãi, đồng thời có chú thích kỹ lưỡng… Đó không chỉ là công phu mà còn thể hiện tình yêu của tác giả đối với quê hương và trách nhiệm của nhà văn đối với bạn đọc.
*
Nếu tôi không nhầm, có rất nhiều anh hùng thành tích lẫy lừng, luôn được đề cao trong những dịp kỷ niệm trang trọng, nhưng không (hoặc chưa) trở thành nhân vật tiểu thuyết như Nguyễn Tiến Nhẫn. Sau khi bị địch xử bắn ngày 16/8/1948, người thanh niên 19 tuổi này chỉ là một liệt sĩ như ngàn vạn người con đất Việt đã hy sinh vì Độc lập và Tự do của Tổ quốc; đến nay, nhờ tài năng của nhà văn, chàng trai chưa mấy ai biết tên ở ven bờ sông Gianh, đã thành một Anh Hùng viết hoa trong lòng độc giả. Nói cách khác, văn học nghệ thuật có giá trị đích thực là sự tôn vinh lớp người đã hy sinh xương máu cho dân tộc một cách đẹp nhất, lâu bền nhất.
Có thể nói: nhà văn Nguyễn Quang Lập đã may mắn tìm được một nguyên mẫu để dựng một liệt sĩ có thật trở thành nhân vật tiểu thuyết sinh động; và ngược lại, liệt sĩ Nguyễn Tiến Nhẫn đã có “duyên” được nhà văn quê hương chọn làm nhân vật tiểu thuyết để có hạnh phúc sống “mãi mãi tuổi hai mươi” trong lòng độc giả nhiều thế hệ như nhà văn Đức Anna Seghers đã viết trong tiểu thuyết “Những người chết còn trẻ mãi”.
Từ nhân vật trung tâm là một liệt sĩ, tác giả đã dựng nên bối cảnh cuộc chiến đấu và đời sống muôn vẻ của cả một vùng đất khá đặc biệt ở phía bắc Sông Gianh một thời “Bình Trị Thiên khói lửa”. Bên cạnh các “thủ trưởng” của Nguyễn Tiến Nhẫn - về sau trở nên những tên tuổi nổi tiếng như tướng Đồng Sĩ Nguyên, Trần Quý Hai…, tác giả đã miêu tả nhiều hoạt động thể hiện lòng yêu nước của rất nhiều lớp dân cư một vùng đất 90% theo Việt Minh, trong đó có nhiều trí thức, các nhà buôn, con cháu của quan phủ Quảng Trạch.
Còn nhiều điều đáng viết về cuốn sách này. Để các bạn còn tìm sách đọc, tôi đã “bỏ qua” không nói đến nhiều đoạn miêu tả trò chơi thuở ấu thơ rất thú vị, cũng như những hoạt động tình báo khá hồi hộp, rồi chuyện Nhẫn đã lọt được vào hang ổ địch bằng cách nào, cũng như vì sao anh bị bắt… Chỉ “tiết lộ” thêm lý do cuộc tấn công vào Hoàn Lão để giải thoát anh Nhẫn do chính “chú Vũ” lập kế hoạch đã thất bại vì không ngờ địch đã chuyển anh vào nhà lao Đồng Hới ngày trước! Và thế là chúng dẫn anh ra Ba Đồn xử bắn trước hàng vạn người dân quanh vùng, trong đó có “em Lê”. Trong trang cuối sách, người yêu của Nhẫn đã nhớ lại:
“…Bỗng anh ngẩng phắt lên nhìn về phía em, cái nhìn như đẫm máu rực sáng lửa tình. Cái nhìn cuối cùng anh dành cho em trước khi về trời. […] Ba phát trúng anh… Có hai phát bắn trượt. Nhưng cả năm phát đạn đều trúng tim em!”
Đó là đoạn cuối Chương 16. Không phải ngẫu nhiên tác giả kết cấu tác phẩm với 16 chương. Anh Nhẫn hy sinh vào lúc người yêu của anh lên tuổi 16 trăng tròn!
Vậy đó! Tôi đã định gọi cuốn tiểu thuyết này là một bản tình ca. Không chỉ vì mối tình Nhẫn - Lê đẹp mà đau đớn như một huyền thoại mà còn vì tình yêu vô bờ của tác giả đối với mỗi tên xóm, mỗi căn nhà, mỗi gốc cây, mỗi phiên chợ, mỗi món ăn… của quê hương. Và chính là trong hai cuộc trường chinh kháng chiến của đất nước ta, kẻ xâm lược giàu súng đạn, rốt cuộc đã thất bại trước một dân tộc đã chiến đấu với tình yêu cao đẹp đó.
N.K.P
(TCSH436/06-2025)
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.