Có một Trịnh Công Sơn của Huế

17:46 16/05/2008
I. Tôi quen anh Trịnh Công Sơn từ thuở còn “quân quản” và trở nên thân thiết đến khi anh rời Huế vào sống với gia đình tại TpHồ Chí Minh.

Trước 75 Trịnh Công Sơn là một trong những thần tượng về âm nhạc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, bởi anh không chỉ biết dấn thân mà nhạc của anh còn vỗ về, an ủi đến nỗi để bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình, nhiều người đã không ngần ngại viết “tôi thích nhạc họ Trịnh”. Đầu năm 71, từ Huế tôi thoát ly lên chiến khu. Trong hành trang của mình, ngoài cây ghita và các tập nhạc của Trịnh Công Sơn vừa được xuất bản, tôi còn mang theo hàng trăm bức ảnh phản ánh cao trào đấu tranh của học sinh sinh viên miền Nam năm  1971, trong đó có hình chàng nhạc sỹ họ Trịnh tham gia phong trào “hát cho đồng bào tôi nghe”. Cảm khái từ nhiều thông tin, sau hiệp định Pari năm 73, như để bày tỏ niềm tin của mình, anh Hoàng Phủ Ngọc đã có bài ký “Như trăm con sông đổ về biển cả” mà Giao (tức Trịnh Công Sơn) là nhân vật trung tâm. Khi tôi ra Bắc chữa bệnh và học tập, không ngờ trong số những người quen, như nhạc sỹ Mạnh Đạt chẳng hạn (nay công tác ở Đài Lâm Đồng) đã hát và thuộc lòng nhiều ca khúc của Trịnh. Vì vậy, khi được điều về công tác ở Đài phát thanh Huế giải phóng, tuy không theo dõi mảng văn nghệ nhưng hễ “có việc” là tôi tìm đến căn gác ở số 11/3 Nguyễn Trường Tộ để phỏng vấn anh Trịnh Công Sơn về những đề tài liên quan. Thuở đó, Huế nghèo và Trịnh Công Sơn chỉ ở một mình. Tôi chẳng rõ, anh Sơn thương và quý tôi khi nào, chỉ nhớ sau một cuộc phỏng vấn. Trời mưa, anh rót rượu mời tôi: “uống đi, rượu Phủ Cam đó”. Với cái tuổi 22 mới ở rừng về như tôi, chưa hề biết mùi rượu là gì nhưng vì “sĩ diện” và trước sự chân thành của anh, tôi đã mạnh dạn cầm ly. Tôi nói hết suy nghĩ của mình, thỉnh thoảng anh Sơn giải bày thêm những điều tôi muốn biết, như về bài “Gia tài của mẹ” chẳng hạn. Sơn hát, tôi vỗ tay theo. Anh can và nói: Thu nghe cho rõ lời đây “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm chinh chiến từng ngày”... Nghe hai từ “Chinh chiến” tôi sững người và hỏi “Nhưng tại sao Khánh Ly và các ấn phẩm đều dùng từ “nội chiến” ? Sơn thở dài, anh chỉ than: Mình không kiểm soát được bởi mình có ở Sài Gòn đâu! Để nguôi ngoai, tôi hỏi về mối quan hệ giữ Khánh Ly và anh cũng như xuất xứ nhiều tình khúc khác. Với Khánh Ly, anh nói đó là người bạn tri âm và rút ra tờ báo có in hình hai người lúc Khánh Ly tại ngoại, chờ để điều tra việc gì đó. Chỉ vào bức ảnh, anh nói: đây là hình do Trung tá Tuấn, chồng cô ta chụp ở trường Quốc Học Huế. Mưa kéo dài. Sơn đưa tôi ra ban công, chỉ lên hàng long não, anh kể “Diễm Xưa. Biết đâu cội nguồn mình lấy ấn tượng từ hàng cây này. Anh khe khẻ hát “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ...” “cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng tôi...” Riêng về bài Như Cánh Vạc Bay , Sơn kể: Lúc ấy mình ở Đà Lạt, một cô từ Pari về đến Sài Gòn tìm địa chỉ. Nàng nói, nàng vừa tốt nghiệp đại học,  sắp đi lấy chồng. Về Việt cốt để gặp mình, nói lên điều mà nàng ngưỡng mộ và chỉ xin phép được hôn mình trước khi đi lấy chồng. Hôn xong, nàng bỏ chạy xuống đồi thông, mái tóc thề của nàng làm mình liên tưởng đến “cánh vạc”... Nơi em về trời vui không em/ nơi em về trời xanh không em/ Ta nghe nghìn giọt lệ/ Rớt xuống thành hồ nước long lanh. Trịnh Công Sơn là vậy. Hình như mỗi tình khúc của anh là dành cho một người tình...
II. Vậy là sau lần đó, anh Sơn xem tôi vừa là đứa em vừa là đứa bạn. Đất nước vào những năm 70 cơ cực quá. Trong gần 4 năm sống ở Huế, ngoài lương tháng 64 đồng kèm theo một chỉ vàng “của mạ cho”, anh Sơn sống tằn tiện với “rượu Phủ Cam” và cơm lúc có lúc không trong căn gác nhỏ của mình. Có lần, cụ Nguyễn Tuân gửi tạng anh chai rượu Tây anh báo cho bạn bè đến để chia sẽ. Trong thư cụ Nguyễn kiệm lời, chỉ vẻ hình một chiếc ly và trên nó là chiếc dù có mưa rơi, chiếm một góc trang giấy. Tôi hiểu cụ Nguyễn nhắn nhủ với anh điều gì đó. Anh trân trọng tất cả các tấm lòng, anh nghèo và bạn bè của anh sống ở Huế đều nghèo. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, Đinh Cường, Tôn Thất Vân, Bửu Ý, Nguỵ Ngữ, Định Giang, Trần Phá Nhạc... phần lớn đều có gia đình. Thỉnh thoảng, nhờ vợ lo cho một bửa để kéo nhau tới nhậu. Nhậu chỉ là cái cớ, còn điều cốt yếu vẫn là động viên nhau vượt qua những tháng ngày gian khổ, để mà làm việc, để mà chia sẽ với quê hương mình. Tôi nhớ có lần trong chuyến đi Quảng Bình công tác, nhờ, “ăn theo” tôi được tặng chừng bón, năm chục quả trứng lộn và vài chai rượu cam Hà Nội. Nhậu xong, Ngụy Ngữ và anh Trịnh Công Sơn cùng về. Đang loay hoay dọn dẹp tôi nghe tiếng gọi thảng thốt: Thu ơi! Thu ơi! Tôi chạy ra, đã thấy Ngụy Ngữ bồng anh Sơn trên tay. Hoá ra đèn phố nhập nhoạng, phía đối diện nhà tôi là mương thoát nước vừa xây nhưng chưa có nắp. Anh Sơn rơi xuống đó! Sờ trán, có máu, chúng tôi cuống cuồng. Ngữ còn tỉnh táo: Mày tìm chiếc kính cho Sơn. Tôi định nhảy xuống mương thì anh Sơn đã can: Nó đây rồi! Chúng tôi mừng, anh tai qua nạn khỏi. Có phải vì vậy mà khi về sống với gia đình ở Tp Hồ Chí Minh, anh Sơn đã trao căn nhà 11/3 Nguyễn Trường Tộ cho Ngụy Ngữ ở nhờ ít tháng (nay là nơi ở của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường) và chiếc xe đạp màu huyết dụ anh tặng riêng tôi. Có lần vào thành phố Hồ Chí Minh, lúc anh còn là Thư ký toà soạn tờ Sóng Nhạc anh hỏi tôi: Chiếc xe đạp còn không, cô Michicô muốn có nó. Tôi ngơ ngác, cố nhớ lại nhưng không thể nhớ chiếc xe đạp anh Sơn cho hiện ở đâu nên đành đánh trống lãng.
“Ngữ ơi, cái đêm mưa gió ấy mày còn nhớ đã nói gì với tao và anh Sơn. Và Nhạc ơi, lần mày cưới Vinh mày có còn nhớ bản nhạc mà anh Sơn viết riêng để dành cho vợ chồng mày nhân ngày cưới” Những ngày ấy đã xa và Sơn ơi, xin anh hãy tha lỗi cho em!
Huế, ngày tiễn anh 4/4/2001

HỮU THU
(nguồn: TCSH số 147 - 05 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.

  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.