Trước 75 Trịnh Công Sơn là một trong những thần tượng về âm nhạc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, bởi anh không chỉ biết dấn thân mà nhạc của anh còn vỗ về, an ủi đến nỗi để bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình, nhiều người đã không ngần ngại viết “tôi thích nhạc họ Trịnh”. Đầu năm 71, từ Huế tôi thoát ly lên chiến khu. Trong hành trang của mình, ngoài cây ghita và các tập nhạc của Trịnh Công Sơn vừa được xuất bản, tôi còn mang theo hàng trăm bức ảnh phản ánh cao trào đấu tranh của học sinh sinh viên miền Nam năm 1971, trong đó có hình chàng nhạc sỹ họ Trịnh tham gia phong trào “hát cho đồng bào tôi nghe”. Cảm khái từ nhiều thông tin, sau hiệp định Pari năm 73, như để bày tỏ niềm tin của mình, anh Hoàng Phủ Ngọc đã có bài ký “Như trăm con sông đổ về biển cả” mà Giao (tức Trịnh Công Sơn) là nhân vật trung tâm. Khi tôi ra Bắc chữa bệnh và học tập, không ngờ trong số những người quen, như nhạc sỹ Mạnh Đạt chẳng hạn (nay công tác ở Đài Lâm Đồng) đã hát và thuộc lòng nhiều ca khúc của Trịnh. Vì vậy, khi được điều về công tác ở Đài phát thanh Huế giải phóng, tuy không theo dõi mảng văn nghệ nhưng hễ “có việc” là tôi tìm đến căn gác ở số 11/3 Nguyễn Trường Tộ để phỏng vấn anh Trịnh Công Sơn về những đề tài liên quan. Thuở đó, Huế nghèo và Trịnh Công Sơn chỉ ở một mình. Tôi chẳng rõ, anh Sơn thương và quý tôi khi nào, chỉ nhớ sau một cuộc phỏng vấn. Trời mưa, anh rót rượu mời tôi: “uống đi, rượu Phủ Cam đó”. Với cái tuổi 22 mới ở rừng về như tôi, chưa hề biết mùi rượu là gì nhưng vì “sĩ diện” và trước sự chân thành của anh, tôi đã mạnh dạn cầm ly. Tôi nói hết suy nghĩ của mình, thỉnh thoảng anh Sơn giải bày thêm những điều tôi muốn biết, như về bài “Gia tài của mẹ” chẳng hạn. Sơn hát, tôi vỗ tay theo. Anh can và nói: Thu nghe cho rõ lời đây “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm chinh chiến từng ngày”... Nghe hai từ “Chinh chiến” tôi sững người và hỏi “Nhưng tại sao Khánh Ly và các ấn phẩm đều dùng từ “nội chiến” ”? Sơn thở dài, anh chỉ than: Mình không kiểm soát được bởi mình có ở Sài Gòn đâu! Để nguôi ngoai, tôi hỏi về mối quan hệ giữ Khánh Ly và anh cũng như xuất xứ nhiều tình khúc khác. Với Khánh Ly, anh nói đó là người bạn tri âm và rút ra tờ báo có in hình hai người lúc Khánh Ly tại ngoại, chờ để điều tra việc gì đó. Chỉ vào bức ảnh, anh nói: đây là hình do Trung tá Tuấn, chồng cô ta chụp ở trường Quốc Học Huế. Mưa kéo dài. Sơn đưa tôi ra ban công, chỉ lên hàng long não, anh kể “Diễm Xưa. Biết đâu cội nguồn mình lấy ấn tượng từ hàng cây này. Anh khe khẻ hát “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ...” “cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng tôi...” Riêng về bài
|
NGUYỄN THẾ Danh nhân Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) sống cách chúng ta gần 200 năm, nhưng cuộc đời và hành trạng của ông chứa đựng tấm gương nhân cách của một nhà nho, một sĩ phu yêu nước thế kỷ XIX.
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Một ông vua triều Nguyễn một trăm năm sau "sống lại", tự thú với các thế hệ mai hậu về cuộc đời làm người và làm vua của mình.
Kỷ niệm 150 năm ngày sinh vua Hàm Nghi (3/8/1871 - 3/8/2021), Hội Nghiên cứu và Phát triển di sản văn hóa Huế tổ chức cuộc tọa đàm/ sinh hoạt khoa học “Hàm Nghi - nhà vua bị lưu đày, nghệ sĩ tạo hình Tử Xuân ở Alger”.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Tháng 5 năm 2020, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định lấy tên Nhà báo - Nhà lý luận báo chí cách mạng Hải Triều Nguyễn Khoa Văn để đặt tên cho Giải Báo chí của tỉnh. Mùa giải năm 2021 là năm thứ hai thực hiện quyết định này. Để bạn đọc có điều kiện hiểu sâu thêm về cuộc đời hoạt động báo chí và cách mạng của Hải Triều, nhân kỷ niệm 96 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2021), Sông Hương trân trọng giới thiệu bài viết về Nhà báo Hải Triều Nguyễn Khoa Văn.
LGT: Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế luôn kỳ vọng vào sự phát triển của đội ngũ sáng tác, nhất là các văn nghệ sỹ trẻ với những sáng tạo để lại dấu ấn lớn trong đời sống xã hội, gắn bó với văn hóa Huế, sự đổi thay về kinh tế - xã hội của vùng đất Cố đô. Trước thềm Đại hội, Sông Hương có cuộc trò chuyện với các văn nghệ sỹ trẻ của các hội chuyên ngành thành viên Liên hiệp Hội.
THUẬN AN
Không có điều kiện để bao quát hết những ký giả viết văn của xứ Huế đương đại, trong khoảng vài chục năm trở lại đây, nhưng tôi nghĩ đó là một đề tài thú vị và đòi hỏi khá nhiều tâm lực. Trong khuôn khổ bài viết này cũng chỉ có thể chấm phá vài ba gương mặt.
Trên đường Nguyễn Sinh Cung qua Đập Đá một đoạn, chúng ta sẽ nhìn thấy một ngôi biệt thự đẹp và sang trọng được xây dựng vào khoảng những thập niên đầu của thế kỷ XX mang phong cách Đông Dương với sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Á và Âu đang dần bị xuống cấp nghiêm trọng và lãng quên.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Bạn đọc và những người am hiểu Huế chắc đã không lạ với tên tuổi của những người cháu và chắt của nhà thơ Tuy Lý Vương như Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Ưng Quả, Bửu Cầm, Bửu Hội, Bửu Huyền (nhạc sĩ), Bửu Chỉ (họa sĩ) v.v.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Sơ lược quê hương và gia thế Quảng Xuyên Trần Đạo Tiềm
Tiến sĩ Trần Đạo công, húy Tiềm 潛, hiệu là Quảng Xuyên 廣川, sinh ngày 07 tháng 10 năm 1859, nguyên quán làng Đông Lâm 東林 社, tổng Phước Yên 福煙 總, huyện Quảng Điền 廣田 縣 (nay là xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế).
NGÔ MINH
Đến năm 2018 này, nhà văn Huế tuổi U80, trên 80, còn sống cả chục người. Có thể gọi đây là THẾ HỆ VÀNG của Huế, thế hệ trụ cột làm nên diện mạo văn chương Huế từ sau năm 1975.
VÕ VINH QUANG
Nguyễn Cư Trinh 阮居貞 (1716 - 1767) là danh nhân nổi bật đất Phú Xuân ở thế kỷ XVIII. Ông là con thứ 7 của Nguyễn Đăng Đệ (1669 - 1727) với bà vợ thứ Ngô Thị Liên (1692 - 1726)1.
ĐÀO SỸ QUANG
Huế đi vào trong tôi từ cái thuở học trò thông qua những bài học lịch sử.
LTS: Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 - 1961) là nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn xứ Huế nửa đầu thế kỷ XX. Ông được các văn nhân thi sĩ đương thời suy tôn là chủ soái “Vỹ Hương thi xã” (1933 - 1945) và “Hương Bình thi xã” (1951 - 1961).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Thời loạn xã hội đảo điên, phong hóa suy đồi, quan tham dân đói,… thường có những người thầy giỏi và đức độ, chăm lo giáo dục nhằm tạo những người học trò tài đức để chuyển loạn thành trị, cứu nước cứu dân… ấy là công lệ của lịch sử.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
ĐINH CƯỜNG
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Ngó bên kia vườn biếc lá hoa lừng
(Bùi Giáng)
HẠ NGUYÊN
“Cái gì người ta có thể đùa, nhưng với mình, có một cái không đùa được, đó là viết văn”.
(Bửu Ý)