Chuyện của Pipa (phần 2)

15:51 06/06/2008
(tiếp theo phần 1)

LaoFu bắt đầu nói: – “Bố cháu và mẹ cháu là hai kẻ mồ côi của làng. Chẳng ai sắp xếp cuộc hôn nhân của họ cả. Khi họ lấy nhau đó là một cuộc hợp hôn của tình yêu”.
Lão làm một miếng mì đầy và tiếp tục. Bố tôi, lão nói, là một người thông minh và nhân hậu. Ông đã bỏ ra hàng năm trời để học đọc và những lúc rỗi rãi ông thường ngồi và mơ mộng trước tách trà của mình. Còn mẹ tôi là một người khôn khéo và mạnh mẽ. Bà ấy không khi nào nghỉ. Bà ấy có một biệt tài mà cả làng đều biết rõ. Nếu vật gì đó bị mất thì hầu như mẹ tôi đều có thể tìm lại được. Ở trên núi bà hiểu rõ trật tự của tạo hóa và kiếm được nhiều rễ sâm hơn bất cứ người nào khác. Bà là người đề xướng rằng bố tôi và bà ấy có thể tăng thêm thu nhập bằng cách đi tìm sâm. Xiao Niou và LaoFu đã đồng ý giúp đỡ họ.
– “Có một chuyện” – LaoFu nói – “Có lẽ vì bà ấy tin chắc”. – mẹ cháu đã đánh giá thấp Xiao Niou. – “Hắn ta là một người tàn nhẫn, đầy tham vọng, một kẻ luôn muốn mình là tuyệt nhất trong mọi việc. Và càng để ý tới mẹ cháu bao nhiêu hắn càng muốn bà ấy bấy nhiêu. Hắn thèm khát bà ấy. Hắn muốn ngăn chặn những việc làm và ý nghĩ kiên định của bà ấy; hắn muốn bà ấy chỉ nghĩ và làm mọi việc vì hắn”.
– “Mẹ cháu không đẹp nhưng bà ấy đầy sức sống đến nỗi không thể làm ngơ được. Bà ấy biết Xiao Niou thèm muốn mình nhưng bà ấy cho rằng bà ấy có thể chế ngự được hắn. Điều đó càng kích thích Xiao Niou cho đến khi hắn không thể chịu đựng được nữa”.

Vào một ngày mùa thu đầy mây mù, cả bốn người đều đi tìm sâm. Ban đầu họ tìm kiếm cùng nhau. Suốt buổi sáng Xiao Niou luôn để mắt đến mẹ tôi. Sau bữa ăn trưa, mẹ tôi đề nghị họ chia nhau ra đi tìm ở các nơi khác nhau. Và Xiao Niou đề nghị hắn và bố tôi đi cùng với nhau.
Buổi trưa hôm đó sương mù dày đặc đến nỗi mẹ tôi và LaoFu làm việc gần sát chỗ nhau mà rất khó nhìn thấy nhau. Không gian rất yên tĩnh. Con đường mòn hầu như không thể nhìn thấy; cây cối và đá núi trông giống như hình người hay hình thú rừng vậy. Nếu không vì mẹ cháu, LaoFu nói, họ đã không tìm thấy đường xuống núi trở về làng.
Khi họ về đến làng, mẹ tôi đã đợi bố tôi và Xiao Niou trở về. Bà nhóm lửa và nấu bữa tối. Nhưng cả hai đều không trở về. Bà bắt đầu lo lắng. Cuối cùng khi làn sương màu xám đã chuyển thành màu đen kịt, Xiao Niou mới đứng trước cửa nhà tôi.
– “Dangbei đâu?” –  Xiao Niou hỏi.
– “Anh nói cái gì vậy?” – Mẹ tôi hỏi. – “Tôi nghĩ là anh ấy đi cùng với anh kia mà”.
– “Anh ấy về rất sớm” – Xiao Niou nói với bà ấy – “Anh ấy quyết định trở về làng rồi cơ mà”.
Suốt đêm hôm ấy mẹ tôi đã ngóng đợi, nhưng bố tôi vẫn không trở về. Ngày hôm sau mẹ tôi lên núi tìm bố. Bà ấy tìm kiếm khắp nơi nhưng vẫn không tìm thấy bố tôi đâu cả. Cuối cùng mọi người trong làng bắt buộc mẹ tôi phải ở nhà vì bà ấy đang mang thai tôi. Mùa đông đã đến.
– “Mẹ cháu đã than khóc suốt mùa đông đó” – LaoFu nói: – “Bà ấy chỉ nói chuyện với tôi và Xiao Niou. Xiao Niou cầu xin bà lấy hắn, nhưng bà ấy từ chối bàn luận về bất cứ điều gì cho đến khi tìm thấy xác bố cháu. Mùa xuân đó, ngay trước khi cháu chào đời, dân làng đã tìm thấy xác bố cháu dưới đáy vực, nằm giữa bụi Thạch anh hồng. Sau khi sinh, mẹ cháu cứ nhất định đi lên núi đến chỗ mà người ta tìm thấy thi thể bố cháu”.
– “Còn đây mới là điều bí mật”– LaoFu nói – “Mẹ cháu chỉ nói với mình bác. Sau khi nhìn thấy nơi mà người ta tìm thấy thi thể bố cháu, bà ấy cầm chắc rằng bố cháu không tự đi đến đó. Nếu cả hai người cùng đào sâm ở chỗ mà Xiao Niou đã mô tả thì bố cháu đã không thể chết ở nơi mà người ta tìm thấy thi thể của ông ấy”.
– “Làm sao mà bà ấy biết được ạ?” – Tôi nói – “Vào một ngày đầy sương mù như thế trên núi thì một người có thể đi lạc bất cứ đâu”.
– “Bác đã hỏi bà ấy, – “Tôi hiểu Dangbei.” – Bà ấy nói – “Anh ấy không bao giờ lạc ở đó được”. Và bác tin bà ấy. Bà ấy biết rõ từng ngọn núi. Bác cảm thấy mình thật ngốc nghếch và tức giận. Quá nhiều chuyện đã xảy ra ngay dưới mũi bác mà bác lại chả hiểu gì cả”.
Lão nhìn tôi. Tôi làm ngơ đi và cúi đầu ăn. “Ngày đó bác còn quá trẻ và bác ghét nhất là mình sai việc gì đó” – LaoFu nói.
– “Mùa hè năm đó, một lần nữa Xiao Niou lại cầu xin bà ấy lấy hắn. Bà ấy đã kết tội hắn đã giết Dangbei, và Xiao Niou đã bỏ làng ra đi. Hắn ta biến mất trong nhiều năm và khi chúng ta nghe tin về hắn thì hắn đã lấy tên là Wens”.
Sau chuyện đó mẹ tôi đã bắt đầu ngồi nghiền ngẫm trước bếp lò. Sau đó bà nói với dân du mục Miao và xin được học phép thuật của họ. Bà ấy không thể quên những gì mà bà ấy bị mất mát.
– “Còn bây giờ,” – LaoFu nói khi câu chuyện kết thúc và hai cái tô của chúng tôi đã rỗng, – “Khi bác trở về làng, mẹ cháu sẽ hỏi bác xem cháu có giữ lời hứa với bà ấy không”
Tôi nhìn lão. Lão cũng hướng về phía tôi; một sợi mì còn dính trên bộ ria của lão. Tôi cảm thấy nóng mắt vì bối rối và tức giận. Tôi cảm thấy như thể thế giới nội tâm của tôi đã bị phơi trần. Lão lại chụp cái bóng của bà ấy lên tôi lần nữa và tôi không thể tha thứ cho lão được.
– “Bác hãy để cho cháu yên!” – Tôi nói – “Bác hãy nói với mẹ cháu rằng cháu sẽ không giữ lời hứa với bà ấy đâu. Tất cả những chuyện đó chẳng là gì với cháu cả. Cháu đã đi xa và bà ấy không thể đụng chạm tới cháu được. Bà ấy không thể bắt cháu làm những gì mà cháu không muốn làm. Hơn nữa, bây giờ thì không thể được nữa rồi”.
Lão mím môi cau có. Lão gật đầu. – “Được rồi. Cháu cứ làm những gì cháu phải làm. Bác sẽ đến thành phố tuần tới”.
– “Bác đừng đến thăm cháu nữa!” – Tôi nói.
Trở lại nhà Wens, tất cả gia nhân đang chuẩn bị cho bữa ăn tối quan trọng. Tôi đi tìm Meisi. Tôi muốn nói chuyện với cô ấy, nhưng người quản gia thứ hai đã đưa cho tôi một đống giẻ, một ít dầu thơm và bảo tôi lau chùi các khung gỗ đóng ô trong phòng ăn và phòng khách.
Khi tôi đang lau chùi và đánh bóng, những ý nghĩ đột nhiên hiện ra trong đầu tôi. Mùi dầu thơm ngạt mũi làm tôi nhớ đến các thứ thuốc của mẹ tôi. Tôi nhớ khi mẹ tôi thái cây thuốc trên chiếc bàn gỗ trong căn nhà nhỏ của chúng tôi, nhớ nỗi buồn thăm thẳm hiện rõ trên nét mặt bà trong ánh lửa. Bà đã yêu bố tôi, người mà tôi chưa hề biết mặt, đến nhường nào. Bao năm nay tôi âm thầm tin rằng mục đích tìm cây cỏ làm thuốc của bà, lời nói của bà chẳng phải để giúp đỡ người khác mà chỉ là để giữ tôi ở bên cạnh bà. Bây giờ thì việc đi xa của tôi hình như cũng ăn khớp với một ý định khó hiểu nào đó. Tôi bắt đầu nhận thấy LaoFu đã đúng. Tôi còn trẻ và thế giới này thật là huyền bí.
Xong việc, tôi đi dọc căn phòng. Và lần đầu tiên tôi nhận thấy có điều gì đó kỳ quặc trong ngôi nhà của Wens. Tôi thấy một ngôi nhà rộng lớn với những người đàn bà và người hầu như một bằng chứng của niềm khao khát không bao giờ nguôi của ông chủ nó, niềm khao khát phá tan mọi sự cản trở và sau khi đạt được thì vứt bỏ chúng. Ngôi nhà dường như ẩm, lạnh và có điều gì đó không thể giải thích được, như thể nó đang che giấu cội nguồn của nó. Các phòng rất rộng và trống không: quá sạch, quá mới và quá lạnh lẽo. Tôi nhìn hàng tá người đang quét dọn, lau chùi dưới nhà như thể ở đó quá bẩn phải tẩy rửa.
Khi tôi bước vào phòng ăn, một miếng giẻ tuột khỏi tay tôi và rơi đánh cạch một tiếng xuống sàn gỗ. Tôi quỳ xuống để nhặt nó lên nhưng rồi tôi dừng lại, đứng dậy và nhìn chằm chằm vào miếng vải cotton xanh thô.
Chụp lấy miếng giẻ, tôi vọt ra và lao lên cầu thang. Tôi cần phải tìm Meisi, bạn tôi, và nói cho cô ấy biết điều gì đã xảy ra. Tôi cần phải nghe xem cô ấy sẽ nói gì. Tôi cần phải gặp cô ấy. Tôi chạy rầm rầm lên cầu thang, qua tầng hai và lên tầng nhà chủ ở.
Ánh sáng mờ nhạt từ mấy cửa sổ chiếu sáng tầng lầu. Trước đây, tôi chưa hề lên cao như thế này, nhưng tôi nhớ câu chuyện từ bàn ăn của gia nhân: bốn bà, mỗi bà ở một phòng riêng và phòng cuối cùng là phòng của ông chủ sát lối cầu thang riêng biệt thông ra cửa ngoài để ông chủ có thể ra vào bất cứ lúc nào. Mọi cánh cửa đóng im ỉm. Mùi xà phòng thơm quyện với mùi nước hoa sực nức. Tất cả họ phải chuẩn bị sẵn sàng cho bữa tiệc tối. Tôi không tìm thấy Meisi. Tôi nghe thấy tiếng vặn khóa cửa và sau đó một cánh cửa khác mở ra và đóng lại ngay tức khắc. Tôi trông thấy hai cánh cửa ở cuối hướng bắc, một trong hai cửa đó khép hờ. Tôi bước vội đến và chạy xộc vào. Meisi lao ra. Khi thấy mặt cô ấy, tôi lặng đi trong giây lát.
– “Có chuyện gì thế?” – Tôi hồi hộp hỏi.
Meisi hai tay bưng lấy mặt thổn thức: – “Ôi thật kinh khủng – Tớ phải đi khỏi đây! Tớ không thể làm việc ở đây được nữa”.
– “Chuyện gì xảy ra vậy?”– Tôi hỏi.
Hai tay ôm chặt lấy hông, Meisi chạy xuống phòng. Tôi lao xuống cầu thang, băng qua mấy người làm đang ngạc nhiên nhìn.
– “Meisi!”. Tôi chạy theo và khẩn khoản: “Hãy để tớ giúp cậu!”. Cô ấy lao vào phòng mà chúng tôi ở chung với vài người khác. – “Làm ơn để tớ giúp cậu đi.” – Tôi nói – “Cậu luôn tốt với tớ mà”.
– “Cậu có cái áo nào sạch không?” – Meisi khóc thút thít, hai tay vẫn ôm chặt trước ngực – “Áo của tớ đang giặt”.
– “Nó quá lớn”. – Tôi nói nhưng vẫn đưa cho cô ấy một cái. Meisi đưa tay đón lấy cái áo và tôi thấy cái áo cô ấy đang mặc bị rách toạc một mảng lớn. Meisi cởi cái áo bị rách của mình ra. Tôi thấy bốn vết tím xanh hình dấu tay trên tay cô ấy cùng với nhiều vết cào xước, thâm tím trên ngực Meisi.
Sau đó thì tôi biết tôi phải làm gì. Tôi tìm cái kéo và cắt hòn đá từ những miếng giẻ mà tôi vẫn cầm trong tay. Tôi chạy trở lên cầu thang, đi qua tầng hai và phòng thư viện và leo lên tầng ba. Cửa ra vào phòng của ông chủ vẫn khép hờ. Tôi bước tới cái giường lớn rủ trướng và giấu hòn đá vào trong đó. Khi tôi xuống phòng thì cả Meisi lẫn đồ đạc của cô ấy đã biến mất.
Tối đó tôi được yêu cầu giúp việc ở thư viện. Hai mắt tôi nhức nhối mệt mỏi. Tôi lục tìm sách ở chiếc kệ sách cao qua ánh sáng hắt lên từ lò sưởi.
– “Các anh nhầm rồi” – Tôi nghe thấy tiếng ông ta nói – “Họ sẽ không làm gì phương hại đến các anh và công việc của các anh đâu. Tốt hơn hết là các anh ở lại Trung Quốc và giữ những gì mà các anh đang có. Không ai nói trước được điều gì sẽ xảy ra nếu các anh bỏ chạy và để lại mọi thứ”.
Người đàn ông ngồi sát bên lò sưởi chẳng nói gì.
– “Họ chẳng bao giờ động chạm đến các ông đâu!” – Ông ta nói.
Một lát sau, một người trong số những người ngoại quốc ngồi trong phòng nói: – “Điều gì sẽ xảy ra với ông, hả ông Wens? Ông cất giấu tiền của mình ở đâu? Ông gửi ra nước ngoài được bao nhiêu?”.
– “Tôi đã nói với các anh rồi,”– Wens nói một cách tự tin: – “Làm sao mà họ có thể bạc đãi một người cùng giai cấp với họ được. Họ chẳng đụng đến tôi đâu”.
Cuối cùng thì tôi cũng tìm được cuốn sách mà ông ta cần, và ông ta cho phép tôi đi nghỉ. Khi tôi đi ra trong phòng vẫn yên ắng. Tôi xuống phòng, thay chiếc áo ngủ và leo lên giường. Khi tôi nhắm mắt lại tôi bỗng thấy mình nhẹ như một cọng rơm. Tôi bồng bềnh trên cao trong gió trên ngôi nhà rộng lớn của Wens và bay trở về nơi tôi đã ra đi. Tôi bay cao trên châu thổ sông Giang Tử xanh trù phú với những người dân chài và đồng lúa mênh mông, xuôi theo dòng sông rộng lớn cho đến khi nó hợp lại đổ xuôi theo dòng thác cuồn cuộn, sau đó tôi bay tiếp về hướng tây, về những ngọn núi của làng tôi. Đêm buông xuống; những ngôi sao lấp lánh trên đầu tôi. Khi tôi hạ xuống đất, không gian tràn ngập hương đất nồng ấm và hương hoa mận ngọt ngào. Tôi bước nhẹ nhàng theo con đường tối, băng qua cái giếng, đi về góc nơi có căn nhà nhỏ của mẹ tôi hơi chùng xuống.
Tôi nhìn qua cửa. Khuôn mặt bà hằn những nếp nhăn sâu, làn da nhợt nhạt; mái tóc dài màu muối tiêu xõa sau lưng. Bà ngồi bó gối trong ánh lửa trước vô vàn hình nhân nhỏ bằng giấy. Bà rì rầm những câu niệm chú, người đu đưa, thì thầm những âm thanh như hơi thở một lời nguyền vô tận. Tôi nhìn vào bếp lửa, than đỏ rực. Tôi nhìn qua cửa sổ cho đến khi hình ảnh của mẹ tôi nhạt nhòa trong khói.

Thỉnh thoảng vào khoảng nửa đêm tôi thường thức giấc vì tiếng súng. Đó là ngày Mười hai tháng Năm, quân đội Đỏ đã đánh chiếm Thượng Hải.
So với những sự kiện đã xảy ra ở Trung Quốc và trên thế giới thì câu chuyện của tôi là chuyện nhỏ và chẳng có gì thú vị cả. Nhưng đó là câu chuyện của riêng tôi. Giống như rễ sâm, quá khứ bị chôn vùi của chúng tôi có những khía cạnh khác nhau. Tôi không bao giờ còn gặp lại mẹ tôi được nữa. Sau khi LaoFu cứu tôi ra khỏi nhà Wens, tôi chạy trốn sang Đài Loan. Một năm sau tôi gặp một người đàn ông cùng làng và ông ta nói cho tôi biết những gì đã xảy ra ở đó: Quân đội Đỏ đã tiến đến làng tôi sau khi Thượng Hải thất thủ một vài tháng và mẹ tôi cũng đã chết.
Ở Đài Loan tôi làm việc cho một thư viện. Bây giờ thì tôi làm việc ở bộ phận sách Trung Quốc cho một Đại học lớn ở Mỹ. Tôi đã có chồng, có hai con và cả hai đều đang học đại học. Chúng tôi có một ngôi nhà nhỏ. Tôi không bao giờ giữ ngôi nhà quá sạch và cố gắng không làm cho con gái tôi sợ như mẹ tôi đã làm đối với tôi. Nhưng có những chuyện tôi không bao giờ quên được và những chuyện mà cả nhà tôi biết rằng họ đừng bao giờ làm. Đó là họ không bao giờ đốt lửa ở lò sưởi, thậm chí cả khi tôi không có mặt ở nhà hàng giờ đồng hồ, bởi vì mùi khói còn phảng phất sẽ làm tôi nhớ đến mẹ tôi.
Tôi hình dung thấy sự nghiền ngẫm quá khứ của bà và tôi nhận thấy rằng thật chẳng khôn ngoan chút nào khi nhìn lại quá lâu và quá sâu sắc về những gì đã qua đi. Nhưng tôi vẫn không thể không nhớ về Thượng Hải, về ngôi nhà của ông chủ Wens khi ngọn lửa tràn qua, thiêu hủy những tấm ván gỗ đắt tiền, những tấm màn cửa, phá vỡ những lá cửa sổ bằng kính và tro tàn bay lả tả trong đêm. Tôi cũng không thể không nhớ về Meisi, bạn tôi và sự nhân ái của cô ấy. Có những điều chúng ta nên quên, nhưng có những điều chúng ta không thể quên...
LINH CHI (Dịch từ The Best American stories – 1994)

LAN SAMANTHA CHANG
(nguồn: TCSH số 231 - 05 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.

  • LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.

  • L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.

  • Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.

  • William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.

  • LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.

  • LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.

  • Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.

  • LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...

  • L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.

  • L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.

  • LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.

  • LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.

  • PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.

  • A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

  • An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.

  • VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.

  • Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.

  • K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.

  • LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.