THẠCH QUỲ
Ảnh: internet
Em đến
Thấp thoáng năm, bảy ngày, em đến
Cánh cửa quen tiếng gõ giữa tai mình
Khi cửa mở, khung trời hình chữ nhật
Em bước vào từ một bức tranh
Khép lại sau lưng mảng trời không cần thiết
Lặng im thay cho tiếng hỏi chào
Anh nâng giữa tay mình cốc nước
Em thân quen, muôn thuở vẫn ban đầu
Những đổi thay trên áo, những sắc màu
Như ánh sáng, như sao trời trên phố
Em lặng lẽ bên anh ngồi đó
Giữa tháng ngày, nào có đổi thay đâu!
Anh mất mát nhiều, anh cũng giàu thêm
Quên, rồi nhớ - Thời gian thanh lọc hết
Câu thơ cũ bây giờ anh lại viết
Cỏ mềm, đá cứng - Vẫn là em!
Có lời nào sánh nổi lặng im
Em ngồi đó, thời gian đang lắng đọng
Cả quá khứ, tương lai còn xáo động
Sẽ ngưng thành ngọn sóng trong tim
Anh trở về thanh thản trước em
Như nước được đánh phèn, như giếng lọc
Em khơi dậy dòng trong qua gợn đục
Của hai bờ ngày tháng chảy triền miên
Anh trở về thanh thản trước em
Như trở lại trước chân trời buổi sớm
Cánh cửa mở, tình yêu luôn mới chớm
Em thân quen, muôn thuở vẫn ban đầu…
Nguyễn Du
Cụ đi tìm chân kinh
Ở thứ kinh không chữ
Biết ai sẽ khóc mình/ sau ba trăm năm nữa?
Một tiếng đàn máu rỏ
Suốt 5 đầu ngó tay
Bây giờ cụ nằm đây/ bình yên chưa/ giấc ngủ?
Thân buộc ràng áo mũ
Lòng gửi trời/ núi xanh
Ôm trọn niềm tâm sự nghìn năm trong ngực mình!
Ai đến trong kê vàng?
Ai về bên nấm mộ
Nhìn bụi hồng dặm kia/ nhớ chăng cồn cát nọ?
Mắt tôi như nụ cỏ/ nhìn trời đăm đắm xanh
Bước sao khỏi bóng mình khi mặt trời đúng ngọ?
Tôi về bên mộ cụ
Lẻ bước giữa chiều hoang/ chỉ thấy bóng kê vàng/ mọc trùm lên
bãi cát!
Cụ không về trong mắt
Cụ không nằm trong thơ
Muốn hỏi hồn dưới đất/ ngủ có yên nấm mồ?...
(TCSH325/03-2016)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.