NGUYỄN THỊ BÍCH PHƯỢNG
Sáng
Chả ai biết bình minh thức dậy bao giờ
Họ từ bỏ giấc mơ khi ánh nắng chực chờ bên khung cửa nhỏ
Bật tung sự tĩnh mịch của thinh âm
Một ngày mới được khơi nguồn.
Những thân xác được ngụy trang trong bộ com-lê bóng lóa
Những chiếc đầm công sở tưởng chừng trong suốt
Họ mộng du lạc vào dòng người trên đường
Còi xe, đèn đường, khói bụi… tất cả cùng khiêu vũ
Giai điệu rum-ba kì quặc.
Chiếc đồng hồ bắt đầu cuộc chạy ma-ra-tông lệch lạc
Họ bắt đầu cho - nhận những lời nói
Những giọt cà phê nhảy tung téo trên từng phím máy
Tiếng máy in xì xèo như kẻ bị bỏ đói
Tiếng hơi thở con người dường chen chúc nhau.
Tất cả chừng bắt đầu
Sự sống…
Trưa
Nắng đang chực chờ như quả cầu lửa
Ngày bị nuốt chửng trong thinh lặng
Con người hóa mù lòa trong cặp kính đen
Ai…
kẻ nào đã chế tạo ra bộ áo giáp hoa
Hùng mãnh chinh chiến giữa xa lộ
Họ quên mất tên nhau
những kẻ xa lạ…
Rồi tất cả bị cướp đi giọng nói
Những ngón tay kỳ dị
Một lời chào quằn quại
Được thốt lên…
Chẳng lẽ…
Người ta say
Người ta mê
Người ta chết trong mật nắng
Người ta giết nhau bằng một ánh nhìn
Ngày bỗng hóa nhòa nhạt
Trái tim không khóc nỗi
Họ lục tìm hơi thở…
Không…
Họ méo máo nắm lấy tay nhau
Rên rỉ tình người...
Chiều
Người ta bắt đầu ùa ra đường
Con phố chừng nín thở
Họ cõng trên lưng những đứa con của số phận
Cuộc rượt đuổi được kích hoạt
Ai sẽ tiến xa hơn
Ai sẽ bị bỏ quên bên hốc thời gian cũ mục
Trời oằn mình đỏ rực hằn lên nỗi đau màu xám
Chẳng còn thứ ánh sáng nào là thiện nguyên
Chúng đều mang tội lỗi
Thời gian cột sợi dây nghiệt ngã
Không chút từ bi, riết lấy chúng ta
Và khi hoàng hôn buông rèm trong đáy mắt
Là khi ta biết chẳng còn cơ hội nào
Không gian chừng co rút
Như một lão già sợ bóng đêm
… chực nuốt chửng lấy linh hồn.
Tối…
Một kẻ tham lam nào đó đã nuốt chửng những tia nắng cuối cùng
Nhường chỗ cho bóng đêm ngự trị
Những cột đèn đường bỗng bốc cháy
Ngã quỵ thành những vệt sáng loang dài
Tôi đã thấy những cái bóng khèo khào đi tìm tĩnh lặng
Họ đâm đầu vào màn đêm như con thiêu thân chờ chực sự chết
Người đàn bà phơi tóc trong đêm
Ngồi vá những vết thương của số phận
Thành phố bị chối bỏ như đứa con hoang
Cuộn mình trong tấm phông rách nát
Tất cả đều giã từ vào cõi mộng
Tìm một chút bình yên…
Thành phố chết
Đêm chết…
Những linh hồn chết
Tất cả đều bị bỏ quên
Vũ trụ ngừng thở
Chỉ
còn
tiếng lao công
đối thoại
cùng thinh lặng!
(TCSH356/10-2018)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi