NGUYỄN HƯNG HẢI
Ảnh: internet
Dưới vòm đa yên tĩnh
Mưa nắng mấy tầng trời không thể nhớ bao nhiêu lần sét đánh
bão vặn cành lột hết mang đi
cây đa làng mấy trăm năm yên tĩnh
sự bình thản của cây đa cho ta học điều gì?
Lũ trẻ làng ta những mùa hè nóng bức thường tụ tập ở đây đánh
chắt, chơi bi
những người già làng ta thường ra đây quét lá
mưa nắng mấy tầng trời dưới bóng đa yên ả
đưa người chết qua đây thường dừng lại chèo đò
Trong nỗi nhớ của bao người xa quê trên ngọn đa còn tổ quạ, dưới
bóng đa còn cái chạc bò
bọt mép những con trâu sau cực nhọc một ngày nằm thở
còn hòn sỏi, viên bi
còn tiếng khóc thất thanh trong mưa gió
chết mấy người sét đánh toạc thân đa!
Bão đến đây và từ đây đi ra
đã ngẫm ngợi điều gì về cổ thụ, mầm non, nương nhờ và lảng tránh
mấy trăm năm không ai nhớ bao nhiêu lần sét đánh
sự bình thản của cây đa cho ta học điều gì?
Quanh cái gốc xù xì
rễ buông xuống xuyên qua đá sỏi
bão lột cành lại ra lá xanh non
như người làng ta bám đất để sinh tồn
trong cái bóng mình trồng không mặc cảm
Người làng ta như cây đa bình thản
bão có vặn cành, sét đánh vẫn bình yên
dưới gốc đa ta ngửa mặt nhìn lên
vô cảm mấy tầng trời vô tội
Đi tìm lại viên bi, hòn sỏi
vẫn hòn sỏi, viên bi nước mắt ông bà
sét đánh bao lần vẫn bình thản cây đa
vẫn bình thản mấy trăm năm bão giật
vẫn bình thản mấy trăm năm còn mất
rễ buông xuống xù xì quanh cái gốc
ta ngẫm ngợi điều gì hay vội vã đi qua?
Tự sự dã tràng
Tột đỉnh của thông minh đôi lúc phải giả vờ…
Biển đánh tan hoang con dã tràng vẫn cứ xây lâu đài trên cát
Không phải con dã tràng không biết
Sóng cũng phải giả vờ không quay lại phía sau lưng
Nếu không xây con dã tràng sẽ suốt ngày lang thang
Không biết làm gì trước đống cát của con dã tràng bên cạnh
Cát cũng chẳng biết mình bị sóng đánh
Sóng cũng chỉ là con dã tràng khi đánh cát tan hoang
Tột đỉnh của thông minh con dã tràng
Mượn cát mượn sóng cho qua ngày buồn tẻ
Qua nỗi vật vờ chẳng có ai chơi
Mà biết chơi với ai trên bãi cát ơ hờ
Cát lấp lại dấu chân, cát bị những mũi chân dằn mặt
Mang đau đớn không công xây lâu đài hạnh phúc
Hạnh phúc không ra khỏi bãi cát bị chôn chân
Giả vờ bị thần kinh con dã tràng không phải vác phải khuân
Những đổ nát, tan hoang khi sóng đánh
Trả cát về cho cát không bất hạnh
Trả sóng về cho sóng không còn gì dấu vết bị lùng săn
Học cách của dã tràng không phải quá băn khoăn
Học cách của dã tràng để làm vui cho cát
Học cách của dã tràng để sóng còn dào dạt
Con dã tràng đã học được ở đâu
Không nhìn lại phía sau
Không có nghĩa không quay đầu để học
Biển đánh tan hoang con dã tràng vẫn cứ xây lâu đài trên cát
Tột đỉnh của thông minh
Có lúc phải giả vờ…
(TCSH353/07-2018)
PHẠM XUÂN PHỤNG
Trung Quốc, hãy nhớ!
NGUYỄN NGỌC PHÚ
Tổ quốc tôi ba nghìn cây số biển
NGUYỄN LOAN
Không thể nào yên
NGUYỄN THÁI HƯNG
Đất ra đảo
Hải Bằng - Nguyễn Văn Dinh - Nguyễn Khắc Thạch - Phạm Tấn Hầu - Trần Bá Đại Dương - Tôn Nữ Ngọc Hoa
Lưu Thị Bạch Liễu - Nguyễn Thuấn - Ngô Thị Ý Nhi - Nguyễn Đạt - Nguyễn Thiền Nghi
Ngọc Biển - Bích Hải - Nguyễn Thị Duyên Sanh - Đông Hương - Hồng Vinh
Kiều Công Luận - Phan Công Tuyên - Hoàng Lê Diễm Trang - Lê Hào - Trần Hương Giang - Nguyễn Hoàng Dương
PHẠM VĂN VŨ
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO
Từ Hoài Tấn có thơ xuất hiện khá sớm trên báo Văn (miền Nam) khoảng giữa năm 1960. Ngay từ buổi đầu, thơ Từ Hoài Tấn đã có một giọng điệu riêng. Và khác với một số người trong nhóm Nội Dung ngày ấy (như Thái Ngọc San, Mường Mán, Nguyễn Miên Thảo…), Từ Hoài Tấn có vẽ lặng lẽ như sự tách biệt của một con đường độc đạo để đi vào khu rừng nội tâm.
HỒ ĐẮC THIẾU ANH
*Ghi nhớ ngày tiễn đưa Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 01-04-2001
Lê Từ Hiển - Nguyễn Như Huyền
Hồ Đắc Thiếu Anh - Nguyễn Hoàng Thọ - Trần Xuân An - Trần Hữu Dũng - Dương Thành Vũ - Nguyễn Hoàng Anh Thư
NGUYỄN HƯNG HẢI
Trần Vàng Sao - Ngô Minh - Phùng Tấn Đông - Nguyễn Văn Phương - Lê Ánh
Phùng Tấn Đông - Bạch Diệp - Nguyễn Man Kim - Đoàn Mạnh Phương - Ngô Công Tấn - Vĩnh Nguyên - Phan Trung Thành - Lê Hưng Tiến - Nhất Lâm - Châu Thu Hà - Nguyên Tiêu
Nguyễn Đức Quang - Đặng Thị Vân Khanh - Tuyết Nga - Thạch Quỳ
LTS: Phùng Quán sinh năm 1932, quê xã Thủy Dương thành phố Huế, gia nhập Vệ Quốc đoàn năm 13 tuổi (1-1946) làm liên lạc, chiến sĩ trinh sát trung đoàn 101.
Đinh Thu - Thái Kim Lan - Ngàn Thương - Hoàng Thị Thương - Nguyễn Miên Thượng - Nguyễn Loan - Vũ Trọng Quang - Trần Hữu Lục - Lê Huy Quang - Đỗ Hàn - Mai Văn Hoan - Trần Tịnh Yên