Nhà thơ Lý Hoài Xuân - Hải Bằng ký họa
LÝ HOÀI XUÂN Nơi tôi để nhớ Nơi bông lúa uốn câu soi mặt nước Tỏa hương trong nỗi nhớ người xa Đời sau nhận từ trái tim đời trước Những hạt vàng lấp lánh phù sa Nơi đàn cá lượn lờ rung sóng bạc Tôm búng càng thức giỡn sao khuya Chú cò trắng lội tìm mồi ngơ ngác Tổ con chim cun cút canh đường đi Nơi lặng im đất vặn mình biến hóa Nở sinh nghìn câu tục ngữ ca dao Dòng mương chở đám mây trôi yên ả Ráng chiều vàng pha lửa ngỡ chiêm bao Nơi anh được gặp em ngày gặt hái Bên đê, ngồi, chung một mo cơm Em trao anh vụng về nhành hoa dại Bồi hồi anh lạc giữa mùi thơm Ôi cái nơi ríu ran lời chiền chiện Bên luống cày mẹ đẻ rơi anh Anh bắt dế, thả diều, say én liệng Bỏ cơm chiều, mẹ phạt vào chân Chính nơi ấy là nơi dài ngọn gió Khi trăng quầng khao khát trận mưa giông Cha hiểu trời qua sắc màu ngọn cỏ Anh hiểu em qua công việc cấy trồng Là nơi ấy trong anh giờ chưa ngủ Giọt mồ hôi thổn thức niềm đau Đất dẫu cũ, người ơi xin đừng cũ Cho nơi cây để nhớ mãi nguyên màu. Lặng im bàu tró Lọc qua cát mịn, lấy từ mưa Nguồn nước bây giờ có khác xưa? Biển mặn kề bên mà vẫn ngọt Đất thần Bàu Tró lạ lùng chưa? Cứ ngỡ đang mơ người nguyên thủy Xuống Bàu múc nước bước quanh co Đốt lửa nướng chim vừa bắt được Nhảy reo bên vỏ ốc vỏ sò! Cứ ngỡ đang mơ đàn chim lạc Từ Bàu mang sóng biếc bay lên Mặt trời đan nắng trên đôi cánh Gió lụa mơn man ngọn cỏ mềm! Tôi như đứa trẻ trong thần thoại Hăm hở đi tìm dấu vết tiên Bỗng gặp nơi chân mình đậu lại Những đồ trang sức người xưa quên! Bàu Tró ngày xưa... ai nhớ không? Ai người gắn bó với nghề nông Dẫu đã nằm yên trong ruột đất Còn mơ lưỡi cuốc buổi vun trồng Bàu Tró bây giờ ... Tôi với tôi Lặng im trong nước trước bao đời Bóng tôi lồng bóng người thân cũ Cùng bóng mây lành không nỡ trôi. Đồng Hới, 1985 Cầu ơi!... Có gì trong quả cầu kia Mà em quyến luyến bỏ đi không đành? Cầu bay chạm đến vai anh Mang theo những tiếng trong ngần của em Chưa quen, chút nữa rồi quên Vút cho khéo! Kìa, em xem quả cầu Lửng lơ, xoay tít trên đầu Lửng lơ giữa ánh nắng mầu chiều quang Biết bao câu hỏi cầu mang Cầu không nói, chỉ âm vang tiếng mình Cầu ơi, sao cứ vô tình Để cho ta bắt ánh nhìn của nhau! (13/6-85) |
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi