LÊ THỊ KIM SƠN
Ảnh: internet
Vệt mùa
Mùa nào cho đồi núi lô nhô
Bản làng giấu trong bản làng những mưa bụi mịt mờ,
đường trơn đỏ vết chân đi
đường lợt lạt những cơn nắng tỏ mà nhòe nhoẹt mưa, âu sầu xanh cây cỏ
làng nối làng ẩn trong ẩm thấp, trong tàng cây im bóng nối đời đời
bếp lửa khơi cho ngày nung nấu những tùm hum ngô bắp đỏ mùa qua.
Vân vê tẩu thuốc quấn tổ sâu kèn rười rượi
Mái đầu bạc khề khà kể dấu hiệu của mùa nấm mối, của những mụt măng, của bầy thú đang mùa sung túc
Của đàn đàn trời đất nẩy mầm sau mưa tươi mới,
Nếp nhà tranh lợp dày mưa chưa hề thấm đến, quyện lấy thời gian hun ẩm làn da màu đồng bóng
Phủ lên mùa không gian thoáng đãng của cây cối, của rừng, của nghi lễ linh thiêng đang mở đầu bằng tiếng hát trầm đục
Tiếng xa gần của dàn chiêng đang hòa mình vào tiếng mưa, tiếng suối
Điệu múa mở màn cho mùa theo chân người nhún nhảy, tiếng hát vướng trên môi
Vương ra khỏi những nếp nhà theo những vệt khói lam mỏng mảnh tan lên trong hơi lạnh của mùa,
Gọi từng vệt chân bám vào đất khơi lên mùa linh nghiệm sống bao la.
Trương Chi
Tơ nhện căng ra,
Con nhện mải miết lên xuống, mải miết dọc ngang
Quấn quanh tinh mơ sương trong veo hạt ngọc
Rũ xuống mặt hồ bình lặng phiên bản giấc mơ yên ả.
Tiếng hát căng tràn bình minh,
Loang loáng mặt nước rẽ sóng trôi đi về nơi gác tía mơ màng
Ai còn ngơ ngẩn lạ,
Say giấc mộng Thiên Thai, phiêu bạt giữa vườn mây tràn ngập nhạc khúc
Còn ai nữa cho tiếng ca tuyệt vọng ngoài con chim đã chết rũ ban mai khác trong tay cô gái trẻ,
Còn ai khác cho lầu son gác tía trở thành nơi giam cầm những nức nở, những thêu dệt thừa thãi của nàng thiếu nữ yểu điệu.
Cám cảnh cho sông nước tan hoang,
Những con cá ngơ ngác vắng đi tiếng sáo dặt diều của chàng ngư phủ
Có sá gì đâu cái gọi là dung nhan,
Trời không oán,
Sông nước chưa từng trách cứ,
Cả vùng yên tĩnh êm đềm trôi qua những tháng ngày chưa từng tủi hổ
Nhưng chỉ vì ai?
Chỉ vì ai mà sông nước lễnh loãng, lờ đờ
Phận người mong manh đến mờ mịt
Cố định trong những định kiến cố hữu thâm căn cố đế ngàn đời truyền lại…
Chén trà tan loãng tiếng hát cùng hình bóng người xưa
Lầu son gác tía còn gì ý nghĩa, nhung lụa úa tàn trong sầu muộn héo hon rồi cũng tan loãng đi theo ý nghĩa cuộc đời không chút so đo
Những sợi tơ nhện dai dẳng vọng lên bài hát tinh sương
Con nhện miệt mài ngang dọc dệt cho ai những tấm áo cưới linh nghiệm của ngày của đêm…
(TCSH345/11-2017)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.