Chùm thơ Langston Hughes

09:42 17/07/2008
LANGSTON HUGHESLGT: Langston Hughes (1902-1967) là một trong những cây viết chủ lực của  phong trào văn học nghệ thuật của người Mỹ gốc Phi - châu trong thập niên 1920, mệnh danh là phong trào Phục Hưng Harlem (Harlem Renaissance)- một nỗ lực nhằm cổ động lòng tự hào về màu da và văn hóa da đen.

Thiên tài sáng tạo của Langston Hughes mang dấu ấn cuộc đời thường của khu Harlem, lúc bấy giờ là một khu phố nghèo nàn, xập xệ, cuả người da đen ở New York . Qua thi ca, tiểu thuyết, kịch, tiểu luận và cả sách thiếu nhi, Hughes kêu đòi bình đẳng xã hội, lên án chế độ kỳ thị chủng tộc và những hành vi chà đạp công lý, đồng thời ngợi ca những tình tự của người da đen.
Ông gần gũi và đưa vào tác phẩm mình những con người mặc dù rất tầm thường nhưng biết trân trọng cái đẹp nội tại trong cuộc đời.  Hughes yêu nhạc blues và jazz, những thể loại rất phù hợp với kinh nghiệm của người da đen khi diễn tả nỗi buồn thảm, cuộc sống lầm than, niềm hi vọng và sự quyết tâm.  Trong một bài viết về nhạc blues, ông cho “đây là một thể loại âm nhạc được hát bởi những cái cổ đen, tả tơi nhưng bất khuất (black, beaten but unbeatable throats).” Hughes đã từng cho thu băng thơ của mình theo nhạc đệm của điệu blues hay jazz do các nhạc sĩ như Charles Mingus soạn. Nhịp điệu của Jazz cũng ảnh hưởng rõ nét lên bài trường thi “Montage of a Dream Deferred”, một bài thơ có lẽ dài bằng truyện Kiều, mô tả đời sống da đen ở vùng ngoại ô - một kết hợp hài hòa giữa thơ, nhạc và lịch sử cuả người Mỹ gốc Phi-châu.
Langston Hughes không những là một khuôn mặt lớn trong văn học sử Mỹ, nhưng còn là một nhà văn hóa góp phần xứng đáng cho cuộc đấu tranh dành quyền làm người cho đồng bào ông.  Thơ của ông trĩu nặng tình tự và khát vọng của người da đen
TRẦN NGỌC CƯ giới thiệu và chuyển ngữ


Người da đen nói về những dòng sông



Tôi đã qua những dòng sông:
Tôi biết những dòng sông xưa như trái đất, xưa hơn dòng máu luân lưu trong huyết mạch loài người.
Tâm hồn tôi sâu thẳm những dòng sông.

Tôi tắm dòng Euphrates những buổi hừng đông.
Tôi dựng lều gần dòng Congo, nước ru tôi ngủ.
Tôi nhìn xuống sông Nile và xây kim tự tháp trên bờ.
Tôi nghe dòng Mississippi hò reo khi Abe Lincoln xuôi về phương Nam, và tôi thấy lồng ngực phù sa rực rỡ dưới trời chiều.

Tôi qua những dòng sông:
Những dòng sông âm u tiền sử.

Tâm hồn tôi sâu thẳm những dòng sông.




Harlem


Lắm khi, thi nhân là nhà tiên tri của thời đại mình đang sống. Bài thơ ngắn này, Hughes viết năm 1950, cơ hồ đã báo hiệu những cuộc nổi loạn đòi quyền sống của đồng bào ông trong những năm 1960 tại các thành phố Watts, Newark, Chicago. Harlem là tên một khu ghetto da đen ở New York.



Việc gì xảy ra
khi một ước mơ bị hoãn trì,
nay lần mai lữa?

Nó sẽ héo khô
như trái nho đem phơi?
Hay nhức nhối như ung nhọt –
Rồi máu mủ tứa ra?
Nó sẽ tanh hôi như là thịt rữa?
Hay với bột và đường phủ lên –
nó sẽ như bánh kẹo ngọt ngào?
Có lẽ nó chỉ xệ xìu
oằn xuống như là gánh nặng.

Hay nó sẽ như trái phá nổ tung?

Tôi cũng ngợi ca nước Mỹ

Nếu bảo rằng nhà thơ là kẻ có viễn kiến của một tiên tri, thì chính Langston Hughes đã thấy Colin Powell, Condoleezza  Rice, Barack Obama… ngồi chung bàn tiệc với người da trắng.

           
Tôi cũng ngợi ca nước Mỹ.

Tôi là người anh em nước da tối hơn.
Họ đưa tôi vào ăn trong bếp
Khi khách khứa tới nhà,
Nhưng tôi vẫn cười vui,
Vẫn ăn uống ngon lành,
Và lớn mạnh.

Mai sau,
Tôi sẽ ngồi vào bàn tiệc
Lúc khách khứa tới nhà.
Có ai dám bảo tôi,
khi đó,
“Mày vào trong bếp mà ăn.”

Ngoài ra,
Họ sẽ thấy tôi mỹ miều xinh đẹp
Mà lấy làm hổ thẹn trong lòng

Tôi cũng là, là Mỹ, như ai.

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)

  • Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis

  • Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.

  • Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch

  • Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp

  • Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.

  • XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)

  • Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).

  • Ludmila TatianitchevaTuổi tôi

  • OCTAVIO PAZ        Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt

  • LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.

  • LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)

  • WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)

  • FRED MARCHANT (Mỹ)                 Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.

  • Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

  • PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP

  • LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.

  • Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.

  • RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865  Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào  chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.