Chợt một chiều tóc trắng

15:25 14/07/2009
PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

Họa sĩ Bửu Chỉ (Ảnh: nhudong.blogspot.com)

Trong sân nhà hoạ sĩ Bửu Chỉ sáng nay, tôi đúng là một con người như thế, trong lúc từng đoàn người ôm những vòng hoa lần lượt vào thắp hương trước linh cữu anh. Đoàn của Phong trào đô thị Huế - Đà Nẵng, của Tuyên huấn Tỉnh... Tôi không nhập vào đoàn nào, mà đứng tần ngần ở một góc sân. Nén hương cần thắp cho anh, tôi đã thắp từ sớm.

Trong nỗi đau mất anh hôm nay, tôi cảm thấy mình chẳng giống ai. Không là đồng chí, đồng nghiệp, không phải đại diện cho chính quyền, đoàn thể, tổ chức. Không là gì hết thảy. Nhưng khi những hạt nước mắt thực sự ứa ra, trào ra không gì ngăn nổi, đâu cần phải là "cái gì", là "ai". Và anh Chỉ ơi, vẫn còn quá nhiều điều chưa kịp nói.

Tin anh bệnh tôi nhận được sáng thứ sáu 13/12. Tiếng anh Nguyễn Thanh Văn điện thoại từ Sài gòn ra như nhoà đi: "Có tin gì thêm về Bửu Chỉ không?... Sao, Nam Nga chưa biết gì à? Anh BC bị đột quỵ, đã mang vào bệnh viện cấp cứu... Có tin gì thêm, nhớ báo cho mình..."

Ở Phnôm Pênh về, suốt cả tuần lễ tôi bị cuốn theo việc tổ chức bảo vệ luận văn Cao học. Hai đề tài phản biện phải đọc cho xong và viết nhận xét, cộng với ba đề tài hướng dẫn cũng phải đọc lại và viết nhận xét về quá trình thực hiện đề tài. Và những buổi lên lớp trong tuần không bỏ được. Chạy đua với thời gian, vật vã níu kéo thời gian, từng giây từng phút, mong kịp thời xong xuôi mọi việc. Tất tả, nhọc nhằn, như hình ảnh con người gầy guộc, khắc khổ trong những bức tranh của anh, đang tay níu thời gian...

Vẫn là ngày 13/12. Anh Nam đi Đà Nẵng từ sáng, chiều mai mới về, không liên lạc được. Tôi điện thoại về nhà anh BC, xin gặp chị Vi. "Cả ba mẹ con lên nhà thương rồi, ở hẳn trên nớ... Không biết bệnh tình Chỉ ra răng... Bữa nớ Chỉ bị lạnh, khó thở, chắc là vì suyễn... Tui là người giữ nhà..."

Chặp tối, anh Nam điện thoại về, sửng sốt với tin dữ. "Tối mai thứ bảy anh mới về đến nhà, sáng chủ nhật tụi mình sẽ đi thăm anh BC".

Tối thứ sáu 13/12, tôi thức gần như thâu đêm, đến bốn giờ sáng mới xong các bài nhận xét luận văn, và chỉ còn hai giờ đồng hồ ngủ lấy sức để ngày hôm sau, thứ bảy 14/12, thức dậy lúc sáu giờ sáng, và suốt ngày dành cho việc bảo vệ luận văn Cao học.

Trưa 14/12, tôi tạt về nhà, nhận e-mail của anh Đặng Tiến gửi từ Orléans: "Tình trạng Bửu Chỉ mỗi lúc một nguy kịch, đang bị trụy tim mạch và đi vào hôn mê sâu, coma profond. Theo tin tức BS Sinh, đang theo dõi bệnh trạng."

Chiều tối, trong buổi họp Hội đồng để điều phối điểm chấm luận văn, một thành viên có việc riêng ra ngoài một lúc, trở vào báo: "Cô Nga ơi, em nghe tin ông Bửu Chỉ mất rồi".

Trước mắt tôi vẫn là những con số, cộng lại và chia ra là điểm chính thức đánh giá công lao những tháng năm dùi mài đèn sách của tám con người. Nhưng những con số đã nhoè đi. Tôi mím môi, quệt nước mắt. Những con số lại nhoè đi. Những khuôn mặt quanh tôi cũng nhoè đi... Không ai trách tôi, dù chỉ một lời.

Tôi mượn điện thoại di động, gọi về nhà. Anh Nam vừa về đến cổng. "Anh kiểm chứng xem tin ấy có đúng không. Em chỉ mong đó là tin thất thiệt..."

Nhưng không, anh Chỉ mất thật rồi. Xong xuôi mọi việc, tôi về nhà. Anh Nam vùi mình trong chăn, đang cơn sốt, xác nhận tin trên.

Tại sao lại thế. Anh Chỉ ơi, sao lại thế...

Anh Nam bảo tôi mở e-mail, báo tin cho bạn bè ở xa biết. "Chắc không cần, tôi nói. Có lẽ ai cũng biết tin rồi". Tôi để nguyên áo dài đang mặc, ngồi khóc.

Mở e-mail, vẫn chưa thấy ai động tĩnh gì. Tôi viết vài câu báo tin, kèm với bức tranh "Tĩnh vật, Cầu hồn" của anh Chỉ. Nhưng chép file ảnh mãi không được, đến khi chép được thì thư không chạy. Nhiều lần vẫn thế. Tôi gửi lại thư, lần này không kèm ảnh. Bấm "Send and receive". Thư đi song suốt. Kiểm tra thử, nó đã vào "Sent Items".

Anh Chỉ ơi, em hiểu rồi, anh không bằng lòng cho gửi bức tranh đó đi. Bức tranh mà ngay từ phút đầu nhìn thấy nó em đã hoàn toàn bị mê hoặc. Những chiếc đèn dầu xếp hàng như lặng lẽ dẫn dắt lối về cõi âm, ù lì trước lệnh gửi, chỉ vì anh không đồng ý. Nhưng sao vậy hở anh? Câu hỏi cứ đeo đuổi em. Mãi đến sáng hôm sau, chủ nhật 15/12, bên linh cữu của anh, khi khách đến viếng vẫn còn rất thưa thớt, nghe chị Vi kể về những ngày cuối của anh, thì em hiểu. "Sáng thứ tư, anh Chỉ đi uống cà phê với Nguyễn Hữu Ngô. Trời lạnh lắm. Một lúc sau anh về, than lạnh. Anh nói với Vi, hiền từ: “Mình lạnh quá”. Anh đòi lấy sấy tóc của Vi để sưởi ấm hai chân. “Vẫn không làm mạnh được, không làm mạnh được, bậy quá”, anh nói... Anh mệt và khó thở, nhưng nói chuyện đi nhà thương là cứ giẫy nẩy. Mãi đến hôm sau, anh mới chịu đi, nhưng nhất định “Me phải đi theo Ba...”".

Chỉ là một chuyến rong chơi thôi, đâu phải đi vào cõi chết, nên việc gì lại "cầu hồn", phải vậy không anh Chỉ? Và trong cuộc rong chơi đó, anh cần có Tường Vi, người bạn đời thân yêu, hiền từ, chung thuỷ, cái bóng êm ái dịu dàng của anh, đi với anh, bên anh, cho đến phút tận cùng có thể, giới hạn cuối cùng được phép, giữa hai cõi âm và dương.

16.12.2002

Buổi chiều, dạy xong hai tiết đầu, tôi có hẹn với anh Nam để cùng đi nhận các vòng hoa đã đặt sẵn, thay cho một số bạn bè, thân hữu của anh BC, hiện ở xa. Ở cửa hàng hoa quen đường Phan Đăng Lưu, có biết bao là vòng hoa có cùng một địa chỉ đến, là ngôi nhà số 279 Nguyễn Sinh Cung.

Những vòng hoa, những lẵng hoa đã bắt đầu tràn ngập bên linh cữu anh, trong nhà, ngoài hiên, ngoài sân. Những tấm lòng bè bạn gần xa. Và cũng bên linh cữu, bức chân dung tự họa của anh, hai khuôn mặt với nét mày chau, bờ môi mím. Như thể hồn anh đã thoát ra khỏi cái vỏ vật chất bấy lâu vẫn dung chứa nó, để đậu lên đó, lặng lẽ, khinh bạc nhìn chiếc áo quan bọc kín cơ thể đã bắt đầu lạnh, trái tim đã ngừng nhịp đập của mình. Từ bức chân dung, anh lặng ngắm chung quanh, đăm đăm, ngạo nghễ, không một lời. Nhưng anh đã nhìn thấu hết. Sự SốngSự Chết có bao giờ gần nhau đến thế đâu. Ở gian phòng bên, bức tranh "Làm xiếc" ngoái nhìn ra, tựa một cái nhếch mép, một cái nheo mắt ngấm ngầm của anh.

Chợt nhớ buổi chiều nào, trước hiên nhà, anh hào hứng khui chai Saint Rémy để nhâm nhi với bạn bè, dịp anh Miên Đức Thắng về thăm Huế. Đó là vào tháng năm 2002, sau khi anh ở Sài Gòn về, và festival Huế đã bế mạc. Hôm đó bạn bè không đông như hôm nay, nhưng họ đã vui hơn, hồn nhiên hơn, rộn ràng hơn, và anh cũng đã vui hơn. Anh đã say sưa hát, hào hứng chia sẻ với chúng tôi những hồi tưởng của mình. Chị Vi lăng xăng khi thì ngồi, khi thì vào trong nhà, bưng ra thêm đĩa bánh ướt, bánh nậm, đĩa tré, chén nước mắm, hai cái cốc lấm tấm những vệt tròn xanh đỏ ("... cho Nga và Vi uống vang đỏ, nhẹ hơn Saint Rémy...")...

Hôm đó, anh bắt tôi ký tên vào cuốn sách nhỏ đầu tay tôi vừa xuất bản, để đề tặng anh, cuốn sách được anh ưu ái cho phép minh hoạ bằng những bức tranh của anh. Anh vui vẻ, thích thú với những trang in màu các bức tranh, đằm thắm nằm xen kẽ giữa những trang sách có nội dung anh cho là "lạ", là hay. Hôm anh đồng ý cho tôi dùng những bức tranh đó, anh đã không chút chần chừ, toan tính, kỳ kèo. Anh đã hoàn toàn thoải mái, cởi mở, hào phóng. "Nam Nga muốn lấy bức mô cũng được..."

Tôi đã rời cuộc vui sớm hơn những người khác, để về nhà lo cơm nước cho các con. Anh Chỉ nhắc chị Vi cột cho tôi một túm vải. "Vải nhà thôi, nhưng ngon. Về ăn cho vui...", anh nói, khi chị Vi cười hiền hoà đưa cho tôi túm vải.

Lúc anh Nam về đến nhà, tôi càng cảm động khi anh Nam vừa kể vừa xuýt xoa: "Anh Chỉ tội lắm. Cứ dặn đi dặn lại anh về phải lo chăm sóc mắt cho em. Anh Chỉ nói, để vậy về lâu về dài không hay...". Anh Chỉ ơi, anh đúng là một người anh ân cần, chu đáo. Có thể với ai đâu thì anh giận dữ, quát tháo, nhưng tụi em sao được anh ưu ái thế. Em vẫn chưa hết run, vừa mừng vừa run, những ngày anh em chuẩn bị in tập bưu ảnh tranh của anh, khi anh điện thoại lên nhà, hỏi ý kiến về cách dịch sang tiếng Pháp tên các bức tranh của anh. Tại sao lại có sự tin cậy đến nhường ấy? Bản thân anh rất giỏi, rất sâu sắc về những từ ngữ tinh tế nhất trong tiếng Pháp, và bên cạnh anh còn có biết bao cây cổ thụ của làng Pháp văn ở Huế: thầy Bửu Ý, anh Bửu Văn... Em chỉ đáng là học trò của họ, thật sự đã là học trò... Em run, lúng túng, khi anh hỏi han qua điện thoại: "Anh cứ nghĩ "Trăng thiên cổ" phải dịch là "Lune d'antan". Nhưng rồi nghĩ lại, thì thấy hay là dịch thành "Lune de l'éternelle réminiscence" hè, chắc rứa thì đúng hơn, nghe hợp lý hơn. Nga nghĩ răng...", "Coi lại giùm anh bản dịch tiếng Pháp cái tiểu sử để in ở trang bìa". Hồi đó, anh điện thoại, e-mail cho tôi và anh Nam nhiều lần trong ngày, khi thì bàn về nội dung, cách trình bày, cách dịch... tên tranh hay lời giới thiệu, khi thì dặn dò về "co" chữ cho từng hàng...

Tập bưu ảnh tranh nay đã in xong. Còn album của anh thì vẫn chưa kịp xuất bản. Nhưng anh Chỉ ơi, đừng bận lòng, hãy cứ thảnh thơi ở nơi anh đến. Anh đã thoát khỏi lụy trần rồi, tội tình gì phải băn khoăn những việc của trần thế. Hãy dể cho những người ở lại làm nốt những điều anh chưa kịp hoàn tất trước khi rời bỏ cuộc chơi.

Tháng 1.2003

Đã gần một tháng người họa sĩ thân mến không còn phải băn khoăn, quằn quại vì tâm tưởng bị giằng co giữa sự sống và sự chết. Cái chết đã thực sự và vĩnh viễn mang anh đi.

Ngày gia đình và bạn bè tề tựu đưa anh rời ngôi nhà ở Vỹ Dạ để lên nằm trên khu đất ở Ba Đồn, từ nơi xa anh Đinh Cường nhờ anh Nam và tôi gửi ảnh tang lễ sang, vì không thể về tiễn bạn. Trong buổi sáng truy điệu cũng như buổi chiều tang lễ, tôi loay hoay với cái máy ảnh, mà nước mắt thì cứ ứa ra không ngăn nổi. Tôi đã vừa quệt nước mắt, vừa nắm vạt áo dài cho khỏi vướng vào những người chung quanh, đi quanh bấm máy. Có lẽ chẳng ai hiểu tôi là ai, là người trong gia đình hay thợ chụp ảnh.

Phút cuối bên huyệt mộ vừa lấp kín, tiếng chị Vi thảng thốt khi cắm nén hương cho anh Chỉ: "Anh Chỉ ơi, anh chết thiệt rồi". Nước mắt tôi như trôi ngược vào hốc mắt, đau nhói.

Những bức ảnh tang lễ được gửi đi sớm sủa, bởi những người bạn thân yêu của anh Chỉ nơi xa đang hết lòng mong ngóng. Cả những bài báo, những tin tức về chị Vi, các cháu Phương, Quang, Minh...

Tháng 3.2003

Thư e-mail của anh Đinh Cường gửi về gần như mỗi ngày, ban đầu còn uất nghẹn, đau đớn, tưởng không gì cứu vãn nỗi. "Tôi buồn xơ cứng cả đầu óc" (ngày 15/12), "BC đã nằm trong quan tài rồi. Tôi như sững từ hai ba hôm nay, không làm gì được. Thương bạn mà xa xôi, nói gì cũng không thấu" (16/12), "...Mà lòng buồn quá như bị hẫng đi" (17/12), "...nhìn ảnh tôi và Chỉ hồi năm ngoái mà ứa nước mắt. Mới đây nữa, Saigon..." (20/12). Rồi những tâm sự pha lẫn với hồi ức ngày càng trầm tĩnh, lắng đọng hơn với nỗi đau chập chờn: "miếng băng tang, giữ giùm tôi, hè tôi về lên thăm mộ Chỉ sẽ nhận" (21.12), "Tôi cứ ngồi sững bên computer, sáng sớm mai ngủ dậy, giờ đó có @ BC gởi, đều đặn cả tháng qua. Chỉ chấm dứt vào ngày 10... Nhờ Nam Nga mà Đặng Tiến ở Pháp, tôi ở Mỹ theo dõi đầy đủ bài viết, ảnh đám tang. Không có gì cảm động bằng tấm lòng bạn dành cho những người bạn BC ở xa, đau thắt ruột mà không về được trong những ngày tang lễ. BC luôn hiểu và thương bạn. Tánh khó, nhưng đã là bạn thiết thì sống trải hết lòng với nhau. Tôi quý và thương Chỉ cũng như Vy và mấy cháu vô cùng" (21/12), "Tôi vẫn thầm tụng kinh cho Chỉ như từng nỗi cô đơn của tôi nơi này. Cuối năm tuyết lạnh" (28/12), "Nhớ và thương tiếc BC, không làm gì được những ngày cuối năm. Buồn như dao cắt" (29/12), "Tôi vẫn còn ngồi thẫn thờ nhớ BC, chưa làm gì lại được. Mùa Đông buồn bã nhất xa bạn" (1/1), "Nhớ Huế và nhớ Vỹ Dạ của BC mà giờ đây bạn đã đi xa 17 ngày rồi"... Gần ba tuần sau khi anh Chỉ ra đi, người bạn chí cốt Đinh Cường vẫn còn chìm trong nuối tiếc và chưa vẽ vời gì được: "Tôi chưa đụng tới cây cọ được nữa sau nhát cọ cuối cùng trên tấm tranh lớn tôi đang vẽ trong ảnh chụp gởi Nam, Trời và Đất..." (2/1).

Rồi e-mail ngày 6 tháng giêng của anh đã khiến chúng tôi vô cùng mừng rỡ: "Hai ngày nay tuyết vần còn rơi. Tôi vẫn lui cui vẽ..."

Anh Cường ơi, vậy là anh "đã lui cui vẽ", anh ĐÃ VẼ...

Điều đó mới ý nghĩa làm sao. Khi có hai người bạn cùng có chung một sứ mệnh với đời, nếu một người vì lý do nào đó phải bỏ việc dở dang, thì người còn lại sẽ phải thay thế bạn mình, làm gấp đôi công việc, kham luôn phần việc bạn mình còn bỏ dở.

Anh Cường ơi, rồi anh sẽ tiếp tục vẽ, không chỉ bằng nét bút của anh, mà cả bằng nét bút của bạn mình, bằng nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi đang đốt cháy trong anh, thôi thúc anh.

Chẳng thể nào khác, khi anh Chỉ đã thật sự và vĩnh viễn rời xa chúng ta. May mà trước khi đi, anh còn kịp để lại cho chúng ta bức tranh vẽ con Dê, để nó thay anh cùng chúng ta đón chào mùa xuân mới.

Ở nơi anh đến, có lẽ người bạn hiền Trịnh Công Sơn, để đón chào anh, đang ôm đàn nghêu ngao hát những câu ca đã vĩnh viễn đi vào lòng người: "Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi... Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày".

Một chiều hồn nhiên tóc trắng, cho cỏ cây lô nhô ngoài vườn cùng ngậm ngùi chít vành khăn trắng tiếc thương...

12 / 2002 - 3 / 2003
P.T.A.N
(181/03-04)


--------------
* Những hàng cuối cùng của bài viết này kết thúc đúng thời gian chuẩn bị một trăm ngày mất của hoạ sĩ Bửu Chỉ. Hôm qua tôi nhận được e-mail của anh Đinh Cường. Anh viết: "...Cái tranh Trời và Đất thì từ hôm Bửu Chỉ mất vẫn để vậy. Có thể trở thành "Hommage à Bửu Chỉ" khi vẽ tiếp...".

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...