Chợt một chiều tóc trắng

15:25 14/07/2009
PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

Họa sĩ Bửu Chỉ (Ảnh: nhudong.blogspot.com)

Trong sân nhà hoạ sĩ Bửu Chỉ sáng nay, tôi đúng là một con người như thế, trong lúc từng đoàn người ôm những vòng hoa lần lượt vào thắp hương trước linh cữu anh. Đoàn của Phong trào đô thị Huế - Đà Nẵng, của Tuyên huấn Tỉnh... Tôi không nhập vào đoàn nào, mà đứng tần ngần ở một góc sân. Nén hương cần thắp cho anh, tôi đã thắp từ sớm.

Trong nỗi đau mất anh hôm nay, tôi cảm thấy mình chẳng giống ai. Không là đồng chí, đồng nghiệp, không phải đại diện cho chính quyền, đoàn thể, tổ chức. Không là gì hết thảy. Nhưng khi những hạt nước mắt thực sự ứa ra, trào ra không gì ngăn nổi, đâu cần phải là "cái gì", là "ai". Và anh Chỉ ơi, vẫn còn quá nhiều điều chưa kịp nói.

Tin anh bệnh tôi nhận được sáng thứ sáu 13/12. Tiếng anh Nguyễn Thanh Văn điện thoại từ Sài gòn ra như nhoà đi: "Có tin gì thêm về Bửu Chỉ không?... Sao, Nam Nga chưa biết gì à? Anh BC bị đột quỵ, đã mang vào bệnh viện cấp cứu... Có tin gì thêm, nhớ báo cho mình..."

Ở Phnôm Pênh về, suốt cả tuần lễ tôi bị cuốn theo việc tổ chức bảo vệ luận văn Cao học. Hai đề tài phản biện phải đọc cho xong và viết nhận xét, cộng với ba đề tài hướng dẫn cũng phải đọc lại và viết nhận xét về quá trình thực hiện đề tài. Và những buổi lên lớp trong tuần không bỏ được. Chạy đua với thời gian, vật vã níu kéo thời gian, từng giây từng phút, mong kịp thời xong xuôi mọi việc. Tất tả, nhọc nhằn, như hình ảnh con người gầy guộc, khắc khổ trong những bức tranh của anh, đang tay níu thời gian...

Vẫn là ngày 13/12. Anh Nam đi Đà Nẵng từ sáng, chiều mai mới về, không liên lạc được. Tôi điện thoại về nhà anh BC, xin gặp chị Vi. "Cả ba mẹ con lên nhà thương rồi, ở hẳn trên nớ... Không biết bệnh tình Chỉ ra răng... Bữa nớ Chỉ bị lạnh, khó thở, chắc là vì suyễn... Tui là người giữ nhà..."

Chặp tối, anh Nam điện thoại về, sửng sốt với tin dữ. "Tối mai thứ bảy anh mới về đến nhà, sáng chủ nhật tụi mình sẽ đi thăm anh BC".

Tối thứ sáu 13/12, tôi thức gần như thâu đêm, đến bốn giờ sáng mới xong các bài nhận xét luận văn, và chỉ còn hai giờ đồng hồ ngủ lấy sức để ngày hôm sau, thứ bảy 14/12, thức dậy lúc sáu giờ sáng, và suốt ngày dành cho việc bảo vệ luận văn Cao học.

Trưa 14/12, tôi tạt về nhà, nhận e-mail của anh Đặng Tiến gửi từ Orléans: "Tình trạng Bửu Chỉ mỗi lúc một nguy kịch, đang bị trụy tim mạch và đi vào hôn mê sâu, coma profond. Theo tin tức BS Sinh, đang theo dõi bệnh trạng."

Chiều tối, trong buổi họp Hội đồng để điều phối điểm chấm luận văn, một thành viên có việc riêng ra ngoài một lúc, trở vào báo: "Cô Nga ơi, em nghe tin ông Bửu Chỉ mất rồi".

Trước mắt tôi vẫn là những con số, cộng lại và chia ra là điểm chính thức đánh giá công lao những tháng năm dùi mài đèn sách của tám con người. Nhưng những con số đã nhoè đi. Tôi mím môi, quệt nước mắt. Những con số lại nhoè đi. Những khuôn mặt quanh tôi cũng nhoè đi... Không ai trách tôi, dù chỉ một lời.

Tôi mượn điện thoại di động, gọi về nhà. Anh Nam vừa về đến cổng. "Anh kiểm chứng xem tin ấy có đúng không. Em chỉ mong đó là tin thất thiệt..."

Nhưng không, anh Chỉ mất thật rồi. Xong xuôi mọi việc, tôi về nhà. Anh Nam vùi mình trong chăn, đang cơn sốt, xác nhận tin trên.

Tại sao lại thế. Anh Chỉ ơi, sao lại thế...

Anh Nam bảo tôi mở e-mail, báo tin cho bạn bè ở xa biết. "Chắc không cần, tôi nói. Có lẽ ai cũng biết tin rồi". Tôi để nguyên áo dài đang mặc, ngồi khóc.

Mở e-mail, vẫn chưa thấy ai động tĩnh gì. Tôi viết vài câu báo tin, kèm với bức tranh "Tĩnh vật, Cầu hồn" của anh Chỉ. Nhưng chép file ảnh mãi không được, đến khi chép được thì thư không chạy. Nhiều lần vẫn thế. Tôi gửi lại thư, lần này không kèm ảnh. Bấm "Send and receive". Thư đi song suốt. Kiểm tra thử, nó đã vào "Sent Items".

Anh Chỉ ơi, em hiểu rồi, anh không bằng lòng cho gửi bức tranh đó đi. Bức tranh mà ngay từ phút đầu nhìn thấy nó em đã hoàn toàn bị mê hoặc. Những chiếc đèn dầu xếp hàng như lặng lẽ dẫn dắt lối về cõi âm, ù lì trước lệnh gửi, chỉ vì anh không đồng ý. Nhưng sao vậy hở anh? Câu hỏi cứ đeo đuổi em. Mãi đến sáng hôm sau, chủ nhật 15/12, bên linh cữu của anh, khi khách đến viếng vẫn còn rất thưa thớt, nghe chị Vi kể về những ngày cuối của anh, thì em hiểu. "Sáng thứ tư, anh Chỉ đi uống cà phê với Nguyễn Hữu Ngô. Trời lạnh lắm. Một lúc sau anh về, than lạnh. Anh nói với Vi, hiền từ: “Mình lạnh quá”. Anh đòi lấy sấy tóc của Vi để sưởi ấm hai chân. “Vẫn không làm mạnh được, không làm mạnh được, bậy quá”, anh nói... Anh mệt và khó thở, nhưng nói chuyện đi nhà thương là cứ giẫy nẩy. Mãi đến hôm sau, anh mới chịu đi, nhưng nhất định “Me phải đi theo Ba...”".

Chỉ là một chuyến rong chơi thôi, đâu phải đi vào cõi chết, nên việc gì lại "cầu hồn", phải vậy không anh Chỉ? Và trong cuộc rong chơi đó, anh cần có Tường Vi, người bạn đời thân yêu, hiền từ, chung thuỷ, cái bóng êm ái dịu dàng của anh, đi với anh, bên anh, cho đến phút tận cùng có thể, giới hạn cuối cùng được phép, giữa hai cõi âm và dương.

16.12.2002

Buổi chiều, dạy xong hai tiết đầu, tôi có hẹn với anh Nam để cùng đi nhận các vòng hoa đã đặt sẵn, thay cho một số bạn bè, thân hữu của anh BC, hiện ở xa. Ở cửa hàng hoa quen đường Phan Đăng Lưu, có biết bao là vòng hoa có cùng một địa chỉ đến, là ngôi nhà số 279 Nguyễn Sinh Cung.

Những vòng hoa, những lẵng hoa đã bắt đầu tràn ngập bên linh cữu anh, trong nhà, ngoài hiên, ngoài sân. Những tấm lòng bè bạn gần xa. Và cũng bên linh cữu, bức chân dung tự họa của anh, hai khuôn mặt với nét mày chau, bờ môi mím. Như thể hồn anh đã thoát ra khỏi cái vỏ vật chất bấy lâu vẫn dung chứa nó, để đậu lên đó, lặng lẽ, khinh bạc nhìn chiếc áo quan bọc kín cơ thể đã bắt đầu lạnh, trái tim đã ngừng nhịp đập của mình. Từ bức chân dung, anh lặng ngắm chung quanh, đăm đăm, ngạo nghễ, không một lời. Nhưng anh đã nhìn thấu hết. Sự SốngSự Chết có bao giờ gần nhau đến thế đâu. Ở gian phòng bên, bức tranh "Làm xiếc" ngoái nhìn ra, tựa một cái nhếch mép, một cái nheo mắt ngấm ngầm của anh.

Chợt nhớ buổi chiều nào, trước hiên nhà, anh hào hứng khui chai Saint Rémy để nhâm nhi với bạn bè, dịp anh Miên Đức Thắng về thăm Huế. Đó là vào tháng năm 2002, sau khi anh ở Sài Gòn về, và festival Huế đã bế mạc. Hôm đó bạn bè không đông như hôm nay, nhưng họ đã vui hơn, hồn nhiên hơn, rộn ràng hơn, và anh cũng đã vui hơn. Anh đã say sưa hát, hào hứng chia sẻ với chúng tôi những hồi tưởng của mình. Chị Vi lăng xăng khi thì ngồi, khi thì vào trong nhà, bưng ra thêm đĩa bánh ướt, bánh nậm, đĩa tré, chén nước mắm, hai cái cốc lấm tấm những vệt tròn xanh đỏ ("... cho Nga và Vi uống vang đỏ, nhẹ hơn Saint Rémy...")...

Hôm đó, anh bắt tôi ký tên vào cuốn sách nhỏ đầu tay tôi vừa xuất bản, để đề tặng anh, cuốn sách được anh ưu ái cho phép minh hoạ bằng những bức tranh của anh. Anh vui vẻ, thích thú với những trang in màu các bức tranh, đằm thắm nằm xen kẽ giữa những trang sách có nội dung anh cho là "lạ", là hay. Hôm anh đồng ý cho tôi dùng những bức tranh đó, anh đã không chút chần chừ, toan tính, kỳ kèo. Anh đã hoàn toàn thoải mái, cởi mở, hào phóng. "Nam Nga muốn lấy bức mô cũng được..."

Tôi đã rời cuộc vui sớm hơn những người khác, để về nhà lo cơm nước cho các con. Anh Chỉ nhắc chị Vi cột cho tôi một túm vải. "Vải nhà thôi, nhưng ngon. Về ăn cho vui...", anh nói, khi chị Vi cười hiền hoà đưa cho tôi túm vải.

Lúc anh Nam về đến nhà, tôi càng cảm động khi anh Nam vừa kể vừa xuýt xoa: "Anh Chỉ tội lắm. Cứ dặn đi dặn lại anh về phải lo chăm sóc mắt cho em. Anh Chỉ nói, để vậy về lâu về dài không hay...". Anh Chỉ ơi, anh đúng là một người anh ân cần, chu đáo. Có thể với ai đâu thì anh giận dữ, quát tháo, nhưng tụi em sao được anh ưu ái thế. Em vẫn chưa hết run, vừa mừng vừa run, những ngày anh em chuẩn bị in tập bưu ảnh tranh của anh, khi anh điện thoại lên nhà, hỏi ý kiến về cách dịch sang tiếng Pháp tên các bức tranh của anh. Tại sao lại có sự tin cậy đến nhường ấy? Bản thân anh rất giỏi, rất sâu sắc về những từ ngữ tinh tế nhất trong tiếng Pháp, và bên cạnh anh còn có biết bao cây cổ thụ của làng Pháp văn ở Huế: thầy Bửu Ý, anh Bửu Văn... Em chỉ đáng là học trò của họ, thật sự đã là học trò... Em run, lúng túng, khi anh hỏi han qua điện thoại: "Anh cứ nghĩ "Trăng thiên cổ" phải dịch là "Lune d'antan". Nhưng rồi nghĩ lại, thì thấy hay là dịch thành "Lune de l'éternelle réminiscence" hè, chắc rứa thì đúng hơn, nghe hợp lý hơn. Nga nghĩ răng...", "Coi lại giùm anh bản dịch tiếng Pháp cái tiểu sử để in ở trang bìa". Hồi đó, anh điện thoại, e-mail cho tôi và anh Nam nhiều lần trong ngày, khi thì bàn về nội dung, cách trình bày, cách dịch... tên tranh hay lời giới thiệu, khi thì dặn dò về "co" chữ cho từng hàng...

Tập bưu ảnh tranh nay đã in xong. Còn album của anh thì vẫn chưa kịp xuất bản. Nhưng anh Chỉ ơi, đừng bận lòng, hãy cứ thảnh thơi ở nơi anh đến. Anh đã thoát khỏi lụy trần rồi, tội tình gì phải băn khoăn những việc của trần thế. Hãy dể cho những người ở lại làm nốt những điều anh chưa kịp hoàn tất trước khi rời bỏ cuộc chơi.

Tháng 1.2003

Đã gần một tháng người họa sĩ thân mến không còn phải băn khoăn, quằn quại vì tâm tưởng bị giằng co giữa sự sống và sự chết. Cái chết đã thực sự và vĩnh viễn mang anh đi.

Ngày gia đình và bạn bè tề tựu đưa anh rời ngôi nhà ở Vỹ Dạ để lên nằm trên khu đất ở Ba Đồn, từ nơi xa anh Đinh Cường nhờ anh Nam và tôi gửi ảnh tang lễ sang, vì không thể về tiễn bạn. Trong buổi sáng truy điệu cũng như buổi chiều tang lễ, tôi loay hoay với cái máy ảnh, mà nước mắt thì cứ ứa ra không ngăn nổi. Tôi đã vừa quệt nước mắt, vừa nắm vạt áo dài cho khỏi vướng vào những người chung quanh, đi quanh bấm máy. Có lẽ chẳng ai hiểu tôi là ai, là người trong gia đình hay thợ chụp ảnh.

Phút cuối bên huyệt mộ vừa lấp kín, tiếng chị Vi thảng thốt khi cắm nén hương cho anh Chỉ: "Anh Chỉ ơi, anh chết thiệt rồi". Nước mắt tôi như trôi ngược vào hốc mắt, đau nhói.

Những bức ảnh tang lễ được gửi đi sớm sủa, bởi những người bạn thân yêu của anh Chỉ nơi xa đang hết lòng mong ngóng. Cả những bài báo, những tin tức về chị Vi, các cháu Phương, Quang, Minh...

Tháng 3.2003

Thư e-mail của anh Đinh Cường gửi về gần như mỗi ngày, ban đầu còn uất nghẹn, đau đớn, tưởng không gì cứu vãn nỗi. "Tôi buồn xơ cứng cả đầu óc" (ngày 15/12), "BC đã nằm trong quan tài rồi. Tôi như sững từ hai ba hôm nay, không làm gì được. Thương bạn mà xa xôi, nói gì cũng không thấu" (16/12), "...Mà lòng buồn quá như bị hẫng đi" (17/12), "...nhìn ảnh tôi và Chỉ hồi năm ngoái mà ứa nước mắt. Mới đây nữa, Saigon..." (20/12). Rồi những tâm sự pha lẫn với hồi ức ngày càng trầm tĩnh, lắng đọng hơn với nỗi đau chập chờn: "miếng băng tang, giữ giùm tôi, hè tôi về lên thăm mộ Chỉ sẽ nhận" (21.12), "Tôi cứ ngồi sững bên computer, sáng sớm mai ngủ dậy, giờ đó có @ BC gởi, đều đặn cả tháng qua. Chỉ chấm dứt vào ngày 10... Nhờ Nam Nga mà Đặng Tiến ở Pháp, tôi ở Mỹ theo dõi đầy đủ bài viết, ảnh đám tang. Không có gì cảm động bằng tấm lòng bạn dành cho những người bạn BC ở xa, đau thắt ruột mà không về được trong những ngày tang lễ. BC luôn hiểu và thương bạn. Tánh khó, nhưng đã là bạn thiết thì sống trải hết lòng với nhau. Tôi quý và thương Chỉ cũng như Vy và mấy cháu vô cùng" (21/12), "Tôi vẫn thầm tụng kinh cho Chỉ như từng nỗi cô đơn của tôi nơi này. Cuối năm tuyết lạnh" (28/12), "Nhớ và thương tiếc BC, không làm gì được những ngày cuối năm. Buồn như dao cắt" (29/12), "Tôi vẫn còn ngồi thẫn thờ nhớ BC, chưa làm gì lại được. Mùa Đông buồn bã nhất xa bạn" (1/1), "Nhớ Huế và nhớ Vỹ Dạ của BC mà giờ đây bạn đã đi xa 17 ngày rồi"... Gần ba tuần sau khi anh Chỉ ra đi, người bạn chí cốt Đinh Cường vẫn còn chìm trong nuối tiếc và chưa vẽ vời gì được: "Tôi chưa đụng tới cây cọ được nữa sau nhát cọ cuối cùng trên tấm tranh lớn tôi đang vẽ trong ảnh chụp gởi Nam, Trời và Đất..." (2/1).

Rồi e-mail ngày 6 tháng giêng của anh đã khiến chúng tôi vô cùng mừng rỡ: "Hai ngày nay tuyết vần còn rơi. Tôi vẫn lui cui vẽ..."

Anh Cường ơi, vậy là anh "đã lui cui vẽ", anh ĐÃ VẼ...

Điều đó mới ý nghĩa làm sao. Khi có hai người bạn cùng có chung một sứ mệnh với đời, nếu một người vì lý do nào đó phải bỏ việc dở dang, thì người còn lại sẽ phải thay thế bạn mình, làm gấp đôi công việc, kham luôn phần việc bạn mình còn bỏ dở.

Anh Cường ơi, rồi anh sẽ tiếp tục vẽ, không chỉ bằng nét bút của anh, mà cả bằng nét bút của bạn mình, bằng nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi đang đốt cháy trong anh, thôi thúc anh.

Chẳng thể nào khác, khi anh Chỉ đã thật sự và vĩnh viễn rời xa chúng ta. May mà trước khi đi, anh còn kịp để lại cho chúng ta bức tranh vẽ con Dê, để nó thay anh cùng chúng ta đón chào mùa xuân mới.

Ở nơi anh đến, có lẽ người bạn hiền Trịnh Công Sơn, để đón chào anh, đang ôm đàn nghêu ngao hát những câu ca đã vĩnh viễn đi vào lòng người: "Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi... Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày".

Một chiều hồn nhiên tóc trắng, cho cỏ cây lô nhô ngoài vườn cùng ngậm ngùi chít vành khăn trắng tiếc thương...

12 / 2002 - 3 / 2003
P.T.A.N
(181/03-04)


--------------
* Những hàng cuối cùng của bài viết này kết thúc đúng thời gian chuẩn bị một trăm ngày mất của hoạ sĩ Bửu Chỉ. Hôm qua tôi nhận được e-mail của anh Đinh Cường. Anh viết: "...Cái tranh Trời và Đất thì từ hôm Bửu Chỉ mất vẫn để vậy. Có thể trở thành "Hommage à Bửu Chỉ" khi vẽ tiếp...".

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách