Chiếc bánh chưng của La Sơn Phu Tử

15:45 18/03/2008
"Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng".     Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.

"Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng".
Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.
Năm 1788, lấy danh nghĩa phò Lê diệt Tây Sơn triều Thanh huy động 200.000 quân Hoa Nam chia làm ba đạo kéo vào nội địa nước ta.
Quân Tây Sơn, theo một kế hoạch định sẵn, liền bỏ Thăng Long kéo về núi Tam Điệp đóng thẳng đến hải phận Biện Sơn, thành mặt trận ngăn đôi Nam Bắc.
Ngày 21-11/âm lịch quân của Tôn sĩ Nghị tràn vào Thăng Long. Tin cấp báo về tới Phú Xuân ngày 24. Bắc Bình Vương vẻ rất bình tĩnh nói với các tướng sĩ : "Chúng đến đây là để mua lấy cái chết mà thôi!".
Hôm sau, Vương làm lễ tế cáo trời đất, lên ngôi Hoàng đế, cải niên hiệu Quang Trung. Lễ chính vị xong đâu đấy, ngày hôm ấy Bắc Bình Vương tự thống lĩnh đại quân, hai mặt thủy bộ cùng tiến ra Bắc Hà. Ngày 29 tới Nghệ An. Tại đây Vương tuyển thêm một vạn quân binh số lên được 10 vạn với một đạo tượng binh được vài trăm con.
Đồng thời với việc tăng cường quân đội, Vương cho mời nhà ẩn sĩ nổi danh là La Sơn phu tử, đến bàn luận về mưu cơ tất thắng. Sau đó Vương cỡi voi ra ngoài dinh trước toàn thể quân đội cất mấy lời hiểu dụ: "Quân Thanh sang xâm lăng, hiện đã chiếm thành Thăng Long, các ngươi đã hay tin ấy chưa? Người phương Bắc không phải nòi giống ta, tất khác lòng khác dạ. Từ đời nhà Hán họ cướp đất đai ta, tàn hại nhân dân, vét sạch của cải, nông nổi ấy không sao chịu được. Người trong nước ai cũng mong đánh đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ. Các vị ấy không chịu bó tay ngồi nhìn quân tàn bạo, nên phải thuận lòng người, dấy nghĩa quân đuổi chúng về phương Bắc.
Nay người Thanh không noi gương Tống, Nguyên, Minh, lại kéo quân qua mưu chiếm nước ta, đặt làm quận huyện. Vậy ta phải vùng lên mà tiêu diệt chúng đi. Các ngươi là hạng có trí, có tài, phải cùng ta đồng lòng gắng sức, làm nên việc lớn.
Đoàn quân Bắc tiến, ngày đi, đêm không nghỉ qua nghìn dặm núi rừng. Ngày 20 tháng chạp, Bắc Bình Vương cùng toàn quân tới Tam Điệp. Ở đây, Vương cho mở tiệc khao quân và tuyên bố:
"Chỉ nội 10 ngày nữa ta sẽ đuổi hết giặc Thanh. Hôm nay hãy ăn Tết Nguyên Đán trước. Sang xuân, ta ăn Tết Khai hạ vào ngày mùng 7 tháng giêng ở Thăng Long".
Do đâu Bắc Bình Vương tuyên bố cả quyết như thế trước mặt tướng sĩ? Dĩ nhiên Vương dã nắm được nhiều yếu tố tất thắng trong tay mới dám tuyên bố như trên để nung lòng phấn khởi của ba quân. Nhưng xác định được ngày vào Thăng Long, hẳn phải nhờ một yếu tố đặc biệt mới được. Bây giờ ta thử trở lại cuộc hội ngộ giữa Bắc Bình Vương với La Sơn phu tử.
La Sơn phu tử tên thật là Nguyễn Thiếp, người xã Mật Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, Nghệ An. Lúc thiếu thời ông theo học với Nguyễn Nghiễm (thân sinh cụ Nguyễn Du), được bổ tri huyện Thanh Chương. Sau một thời gian thấy không thích hợp, ông từ quan về ẩn ở núi Thiên Nhận cũng trong tỉnh Nghệ An. Có lần chúa Trịnh Sâm mời ông ra để trọng dụng, nhưng ông từ chối. Lần này, nghe nói quân Tây Sơn ra Bắc Hà diệt quân Thanh, vì đại nghĩa ông mới chịu tới, và lúc đó là lúc ông vừa mới ở Thăng Long về Nghệ An, nên hiểu rõ tình trạng quân giặc. Bắc Bình Vương hỏi: - Quân Thanh sang xâm lăng, ta nay phải làm tướng thân chinh, mưu đánh hay giữ, xin nhà thầy nói cho nghe. La tướng phu tử đáp:
- Nay ngoài Bắc Hà thế nước chông chênh, lòng người tan nát. Quân Thanh từ xa kéo đến, không rõ tình hình mạnh, yếu, không biết phương thế đánh giữ gì đâu. Chúa công ra chuyến này chẳng qua 10 ngày thì dẹp xong. Bắc Bình Vương nghe nói mừng lắm, và trong dịp này La Sơn phu tử có hiến cho Vương một mưu kế, và tổ chức nội gián.
La Sơn phu tử xin Vương hãy thảo một tờ mật dụ bảo Đinh Đề Lĩnh (Vị võ quan này thường ngỏ ý với bạn thân rằng: - Vua ta mượn quân Thanh khác gì rước voi về dầy mồ...) giúp sức, rồi chính phu tử mang ra  Thăng Long lấy thân tình kêu gọi họ Đinh làm nội ứng.
Bấy giờ, các cửa thành Thăng Long đều do quân Thanh canh gác, việc khám xét rất nghiêm ngặt. Sáng mùng 3 Tết, Đinh Đề Lĩnh đang ngồi trong gian phòng , bỗng có tên lính hầu vào bẩm có một người ở xứ nghệ đem biếu cặp bánh chưng. Ngạc nhiên, ông cho mời ngay vào xem ai. Thoạt nhìn ông đã nhận được ngay là ẩn sĩ Nguyễn Thiếp trước đã dạy học ở nhà ông, Đình Đề Lĩnh vồn vã hỏi: - Năm mới sao thầy không ở quê ăn Tết cho vui, chịu vất vả ra đây chắc hẳn có chuyện gì? Nguyễn Thiếp đáp: - Tôi e năm nay tại kinh đô không thể vui Tết được nên vội thân hành ra mừng Ngài. Vừa nói ông vừa đặt cặp bánh chưng lên bàn đồng thời đưa mắt nhìn ông Đề Lĩnh và nhìn tứ phía. Ông Đề Lĩnh hiểu ý ngay, liền đuổi mấy tên lính hầu ra ngoài. Nguyễn Thiếp lấy một chiếc bánh cắt làm đôi rồi chỉ vào nhân bánh mà nói: - Anh hùng nên thức thời mà lập công. Vận mệnh nhà Lê đã đến ngày tàn, mới rước quân Thanh về dày xéo đất nước. Vua Quang Trung là bậc anh dũng khác thường, nay đem quân ra Bắc Hà diệt kẻ xâm lăng. Ta nên sớm biết đường giúp nước. Để chóng thành công nhà vua cậy ông giúp sức. Ngài tự thảo tờ mật dụ này ủy tôi đưa tới ông. Thấy quân Thanh khám xét quá nghiêm nhặt tôi phải giấu tờ dụ vào chiếc bánh chưng này, và may mắn lọt tới đây. Xin ông gắng sức thi hành đúng theo lời dụ, ắt nên công lớn. Đây là một cơ hội rất tốt để giúp nước trừ giặc xin ông chớ bỏ lỡ... Dứt lời, Nguyễn Thiếp rút tờ dụ trong nhân bánh đưa cho Đinh Đề Lĩnh xem. Được lời như cởi tấc lòng, viên Đề Lĩnh vui mừng nguyện sẽ thi hành đúng theo mật kế.
Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào chiếm đóng Thăng Long với khí thế kiêu căng ngạo nghễ. Hắn nói với Võ Trịnh, quan Tham tri của Lê Chiêu Thống: - Tự ta coi thì Tây Sơn chỉ như giống dê chó mà thôi. Rồi đây ta sẽ sai người lấy thừng trói cổ chúng lôi ra hẳn không khó gì, các ngươi cứ giương mắt mà xem! Rồi Sĩ Nghị sai đóng đồn ở mé bờ sông Nhị cùng chia quân ra giữ các mặt. Bắc cầu phao qua sông để tiện quân sĩ qua lại. Sáng hôm sau, Nghị làm lễ phong cho Lê Duy Kỳ làm An nam quốc vương, lấy niên hiệu Chiêu Thống. Từ đó Nghị cứ lo phè phỡn ăn chơi không nghĩ tới việc binh nữa.
Lệnh xuất quân của Quang Trung truyền ta vào ngày 30 Tết. Quân Tây Sơn vượt qua sông Giản Thủy (Ninh Bình), đám nghĩa quân của vua Lê hoảng sợ bỏ chạy tán loạn. Đến Phú Xuyên, quân do thám Tàu bị bắt trọn, những đồn ở gần đó chẳng được tin tức gì.
3-1/âl giặc Thanh đang ngủ ngon giấc trong đồn Hà Nội. Bỗng tiếng trống, tiếng chiêng rền vang cùng với tiếng gào thét của thiên binh vạn mã tràn tới. Giặc kinh hồn bạt vía, kéo ngay cờ hàng. Quân Tây Sơn liền tiến vào đồn thu hết quân nhu, khí giới.
Mùng 5-1, mờ mờ sáng, người anh hùng của dân tộc quấn chiếc khăn vàng ở cổ, xắn áo cởi voi thúc quân tiến sát đến đồn Ngọc Hồi. Binh xung phong là một đạo tượng binh hùng hậu. Quân Thanh xua ky  binh ra ứng chiến, ngựa gặp voi hoảng sợ, nhảy lồng lên tán loạn. Địch quân liền rút vào đồn cố thủ. Đoàn quân thừa thế phá cửa lũy tràn vào như nước vỡ bờ, đánh giáp lá cà, hậu quân cũng dồn tới tử chiến với giặc. Quân Thanh tán loạn dày xéo lẫn nhau mà chạy, thây chết nằm ngổn ngang. Đồn Ngọc Hồi tan vỡ. Đoàn quân chiến thắng liền kéo thẳng về phía Thăng Long hạ luôn hai tiền đồn Văn Điển và Yên Quyết, các tướng lãnh của chúng đều phơi thây trên chiến địa.
Trong mấy ngày đầu năm (Kỷ Dậu-1789), Tôn Sĩ Nghị ở trong thành Thăng Long không được tin tức gì, nên cứ yên tâm. Đến ngày mùng 4 mới được cấp báo của quân đồn Ngọc Hồi chạy về, Nghị vội lên kỳ đài quan sát và được tin đồn Điền Châu thất thủ, quân Tây Sơn đang kéo tới Kinh thành. Hắn không kịp mặc áo giáp, và không đợi thắng yên ngựa, đem một số quân kỵ dưới trướng chạy qua sông sang Bắc Ninh, rồi lại nghe tin có quân Tây Sơn từ phía đông đổ đến chận đường, khiếp đảm quá cùng với đám tàn binh tìm đường chạy trốn, quăng cả sắc thư, ấn tín, cờ hiệu, chỉ mong được thoát thân mà thôi.
Thấy Tôn Sĩ Nghị chạy trở về tơi tả lại nghe tin quân Tây Sơn đuổi theo, dân Tàu ở mấy tỉnh giáp giới Việt hoang mang kinh hãi bồng bế dắt dìu nhau mà chạy. Sử chép: "Từ cửa Ải về mé Bắc hơn vài trăm dặm, không nghe thấy tiếng người nào".
Trận chiến ở Thăng Long chấm dứt vào giờ Thân (4,5 giờ chiều) ngày mùng 5. Chiếc hoàng bào của Quang Trung đã ngã màu đen sẫm qua 5 ngày đêm xông pha trong khói lửa, và đúng như lời hẹn, đoàn quân giải phóng Bắc Hà đã hân hoan ăn Tết Khai Hạ tại Thăng Long Thành.
NGÔ TUỆ

(nguồn: SH 3.1999)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN                         Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".

  • TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.

  • TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.

  • HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.

  • PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.

  • PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.

  • Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.

  • Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.

  • LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9. 

  • Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của  xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.