YẾN THANH
Có nhiều thứ
Không thể chùi được bằng nước mắt
Như ánh sáng kia trên bầu trời hoàng hôn và bình minh của biển
Như sự nín lặng bất lực của cát.
Như bàn tay bên cạnh một bàn tay
(Bạch Diệp)
Bạch Diệp là một người đến trễ trong ngôi đền của thi ca. Mãi đến năm 2011, sau rất nhiều đắn đo chị mới cho in tập thơ đầu tay của mình với tựa đề Vũ điệu lam và rồi Tùng Gai những ba năm sau đó.
Ám ảnh của tôi về Bạch Diệp đó là vẻ khói sương bảng lảng, sự mong manh ma mị của con người chị. Chị ở gần đây nhưng dường như tồn tại ở chốn khác, rất xa chúng ta. Bạch Diệp thích màu trắng, nghiện màu trắng, hay có thể nói nàng ám ảnh về nó. Cái màu trắng như những chiếc lá trắng (Bạch Diệp), điều mà chúng ta rất hiếm gặp trong tự nhiên.
Thơ Bạch Diệp là một tự sự buồn về thân phận người phụ nữ, song chị không rơi câu chữ vào những tâm sự than thân trách phận thường tình, cũng không nương vào cảm xúc để đẩy đi ngôn ngữ của thi ca. Bạch Diệp cũng chối từ sự tân kì, đánh đố, làm ra những bài toán ngôn từ khó giải, những cấu trúc câu đố trong thơ. Thơ chị như một con thuyền nhỏ, lặng lẽ trôi men theo ranh giới của những dòng hải lưu lý thuyết, tuyên ngôn, tư trào thi ca lớn, đang là mốt tân kì trên thi giới. Ngay cả tiếng khóc trong thơ, Bạch Diệp cũng gần như tiết chế đến mức im lặng. Sức mạnh và sự quyến rũ trong thơ chị là sự tiết chế, để đạt được cảnh giới đó, trong cuộc đời phải là người chấp nhận những hi sinh. “Thời gian như chiếc lưới - Vớt nhầm hạnh phúc khổ đau - Dấu vết này là vĩnh cửu - Những lời đã thốt hôm qua - Em đốt ngọn lửa nhỏ - Run rẩy góc phòng tối - Một tồn tại nơi đây - Như chậu hoa trên ban công - Biết chắc - Mùa đang xa dần...” [Thầm thì].
Cảm xúc, thân phận, ý nghĩ của chị đặt chìm dưới hệ thống hình tượng ẩn dụ, lời lẽ cũng giản dị hết sức có thể. “ai cũng có thể chạy - ra cánh đồng một mình - Sao cứ phải đau buồn đến thế - Sao cứ mãi - đau buồn đến thế” [Mở mắt tràn bóng tối]. Những câu hỏi giản dị mà khắc khoải, cứ ám riết vào đầu óc của người đọc như một sự thổn thức, một nỗi đau ám thị bất khả giải. Chúng ta có thể chạy đi để tìm những cánh đồng mới, vượt qua thung lũng của đau thương, nhưng tại sao trong suốt cuộc đời mình, ai cũng ở lại mãi trong một/nhiều nỗi đau như thế? Bởi vì, đó chính là tình yêu. Tôi không là người chủ trương khổ hạnh trong tình yêu, nhưng tôi vẫn tin rằng Chúa vĩ đại bởi vì người trao tình yêu cho chúng ta từ nỗi đau và cái chết đầy tính hi sinh trên thập giá. Nếu Chúa không chứng nghiệm cái chết và nỗi đau ấy, người vẫn sống hạnh phúc bên gia đình, liệu tình yêu của người có còn thiêng liêng như thế hay không? Nếu anh và em yêu nhau, chúng ta vẹn toàn trong hôn nhân và hạnh phúc vĩnh viễn, đó là một tình yêu khuyết tật hay tình yêu viên mãn? Sự dang dở, đớn đau trong tình yêu, đôi khi là một giá trị. Chúng ta yêu nhau không phải để trốn chạy và minh giải nỗi cô đơn, ta yêu nhau là để hiểu hơn về nỗi cô đơn, làm sâu sắc hơn nỗi cô đơn của đời mình. Bạch Diệp hiểu và tin vào điều đó. “Chúng ta cô đơn giữa khu rừng đời mình - Chúng ta cô đơn trong vòng ôm của mình...” [Đừng hát khi lên đồi].
Những khoảng trống và hình ảnh thường tình trong thơ chị là một sức mạnh, một thứ quyền uy của cái vắng mặt, cái không được (phép) nói ra. “thứ này nghẹn - không thể nuốt - nó sẽ bấn loạn thành màu gì - chẳng phải đông không phải hè - Tôi bỗng ghen với sự rạch ròi của cỏ” [Cocktail]. Thơ Bạch Diệp có thế mạnh trong việc gợi ra sự mơ hồ, chúng ta tưởng như là nó ở đó, nhưng nó không hiện hữu hình hài. Thứ ma mị này không rạch ròi như cỏ, không bao giờ như thế, mà nó là những tâm sự thầm kín, là nỗi đau của riêng mình. Phàm là đàn bà, trong tình yêu, ai chẳng rơi vào trạng huống tinh thần như thế một vài lần trong đời.
Bạch Diệp chưa bao giờ, không bao giờ là một nhà thơ theo chủ nghĩa nữ quyền (feminism), chị là một nhà thơ nữ tính (feminility). Thiên tính nữ trong thơ chị là điểm mạnh mà cũng là điểm yếu. Mạnh về cảm xúc, yếu về tư tưởng. Nhưng phàm là kẻ yếu đuối, thất bại trong tình cảm, người ta mới tìm đến thi ca. Những kẻ hùng mạnh, thành công ngoài kia, đã đi theo những con đường khác, con đường của vương quyền, của thụ hưởng hay của sự thống ngự về giới. Nỗi đau khổ nữ giới trong thi ca là một nỗi đau đớn có tính chất thanh tẩy (catharsis), nó cứu rỗi được nhân vị đàn bà. Suy cho cùng, đàn bà luôn là phe nước mắt: “Em mang những sẹo trên ngực - Đứng bên bờ sâu - Anh bao nhiêu trăng không đầy - Em bao nhiêu mưa không trôi” [Sắp hết thì giờ rồi]. “Vệt mascara trên chiếc khăn màu trắng - Em không thể vò sạch, bằng nước mắt - Anh hiểu không” [Dấu vết]. Bạch Diệp có lẽ đến muộn trong thi giới, bởi vì chị cần có thời gian tích tụ đủ nỗi đau nhân sinh, nỗi đau tình yêu, nỗi đau làm người (đàn bà).
Đọc thơ chị, ta thấy rõ chân dung của một người đàn bà cô độc. Người đàn bà ấy khao khát yêu thương, tận hiến, hạnh phúc và người đàn ông là có thật, song không được trọn vẹn bao giờ. “Em muốn khóc lúc anh ngồi lặng - Cô độc xoay lưng như con sói trong chiều - Muốn ôm anh khi nghe anh hát - Muốn chạm tay thật khẽ viền môi - Mưa che sân khấu cho người - Em hết nằm nghiêng lại nằm co - Anh như chiếc phao ai cất trên trần nhà - Mưa ngập em - Em chới với nhìn - anh ngập trong người khác...” [Điên]. Bạch Diệp thích hội họa, có sự am hiểu và chuyên môn về hội họa, vì thế thơ chị kiệm lời mà mạnh về hình ảnh và cảm giác. “Cô độc xoay lưng như con sói trong chiều” là một hình tượng đậm hình ảnh của hội họa siêu thực.
Khi đọc tập thơ của chị, để viết những dòng rời rạc này, bất chợt tôi nhớ đến Phạm Phú Phong với lời tựa đầy trăng/tài hoa trong một quyển phê bình của ông: “Ta đến với văn chương như một cuộc ngoại tình”. Suy cho cùng, chẳng ai sống nhờ thơ và kiếm tìm vinh quang với thơ ca. Thời đại ấy, nếu có tồn tại thì đã trôi qua từ rất lâu rồi. Làm thơ là tâm sự với mình, nói với mình, để hiểu mình mà thôi. Mọi cuộc tình với thơ ca đều là cuộc ngoại tình giữa cuộc đời này. Nơi ta được sống riêng, sống trong bí mật, sống vượt những thường nhật áo cơm của cuộc đời ô trọc. Bạch Diệp dường như yêu tha thiết trong thơ chị, một tình yêu lý tưởng, phi thực. Anh ở đó mà không cần hiện diện. “Em muốn chạm vào ngày - chỉ để biết - anh vẫn luôn ở đó - tồn tại - mà không cần hiện diện...” [Một ngày trôi không từ biệt]. Dùng cái không để vẽ nên cái có là một năng lực phi thường của thi ca, phương cách duy nhất để họa nên cảm giác mà lý trí dường như bất lực. Người đàn ông nam tính lý tưởng này, chàng hiện hữu trong sự nam tính bí mật: “Gió mê muội như đêm - như em - nhận biết khuôn mặt anh trước khi trời sáng - sự đụng chạm mềm mại - phủ tấm chăn cho hai người cô độc - em sẽ nhớ cho đến chết - vĩnh cửu những dấu vết” [Lúc năm giờ chiều]. Những “dấu vết” và “sự đụng chạm” ấy là vật chứng cho tình yêu, và là vật chứng cho sự tồn tại đàn bà của chị. “Anh” hiện hữu trong sự không hiện hữu, mà cũng bởi vì không hiện hữu (trong đời thực) nên anh luôn hiện trong thơ của chị) như một sự phóng chiếu những khát khao, ẩn ức (refoulement). Anh hiện diện chói nhòa, mặc khải trong thơ chị. “em sẽ không nhắm mắt - khi ngủ - sẽ không thể nhìn - khi thức - bất kì ánh sáng nào - ngoài khuôn mặt anh” [Hay là chúng ta ra biển]. Hình tượng anh có hào quang của những thiên thần. Bạch Diệp chỉ thực sự mạnh mẽ khi nàng được sống trong tình yêu, một tình yêu trong mơ mà chị hằng khát khao được sống trải: “Em đã bắt đầu câu chuyện này vào một đêm tháng tư - giọng nói của anh tan cùng đất nâu với tiếng rì rầm của trái cây mùa lên men nhẫn nại trong vườn - đừng thức tỉnh em - em luôn mất ngủ vì nỗi ám ảnh nhớ anh - mưa đã đến đây rồi - trốn vào đâu cũng ướt” [Hạt sương]. Tôi nghĩ đây không chỉ là một trong những câu thơ hay nhất của tập thơ này, của sự nghiệp thi ca Bạch Diệp nói chung, mà còn là của thi đàn mươi năm đầu thế kỉ XXI này. Những câu thơ hay trong sự giản dị, nói những điều thường tình mà không phải ai cũng có thể nói ra, dù ít nhiều trong cuộc đời chúng ta đều nghiệm trải những trạng huống tinh thần như thế, những tình yêu như thế.
Nỗi niềm tưởng rất riêng Bạch Diệp cũng là của đàn bà, ấy là không thể đi hết con đường mộng tưởng. Những trì níu thường tình, những cương tỏa trách nhiệm, sẽ kéo chị về với thực tại. Chị đã viết như một lời thú tội với chính mình. “Khi những chiếc ly đã úp lên giá - Người đàn bà kì cọ bàn tay - Bằng một thứ nước tẩy - Của sự ám ảnh gột rửa - Cho đến tận bình minh”, bấy nhiêu ấy cũng chỉ để dặn lòng: “Khi nhóm bếp đừng nên khóc”.
Hiểu thông điệp của những câu thơ trên như thế nào là cả một sự nghiệp trải trong cuộc đời. Xinh dành riêng cho bạn đọc thưởng lãm điều bí mật ấy.
Y.T
(TCSH394/12-2021)
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.
MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.