Chân dung người đàn bà khóc khi đang nhóm bếp

09:14 13/01/2022

YẾN THANH   

Có nhiều thứ
Không thể chùi được bằng nước mắt
Như ánh sáng kia trên bầu trời hoàng hôn và bình minh của biển
Như sự nín lặng bất lực của cát.
Như bàn tay bên cạnh một bàn tay

                        (Bạch Diệp)

Bạch Diệp là một người đến trễ trong ngôi đền của thi ca. Mãi đến năm 2011, sau rất nhiều đắn đo chị mới cho in tập thơ đầu tay của mình với tựa đề Vũ điệu lam và rồi Tùng Gai những ba năm sau đó.

Ám ảnh của tôi về Bạch Diệp đó là vẻ khói sương bảng lảng, sự mong manh ma mị của con người chị. Chị ở gần đây nhưng dường như tồn tại ở chốn khác, rất xa chúng ta. Bạch Diệp thích màu trắng, nghiện màu trắng, hay có thể nói nàng ám ảnh về nó. Cái màu trắng như những chiếc lá trắng (Bạch Diệp), điều mà chúng ta rất hiếm gặp trong tự nhiên.

Thơ Bạch Diệp là một tự sự buồn về thân phận người phụ nữ, song chị không rơi câu chữ vào những tâm sự than thân trách phận thường tình, cũng không nương vào cảm xúc để đẩy đi ngôn ngữ của thi ca. Bạch Diệp cũng chối từ sự tân kì, đánh đố, làm ra những bài toán ngôn từ khó giải, những cấu trúc câu đố trong thơ. Thơ chị như một con thuyền nhỏ, lặng lẽ trôi men theo ranh giới của những dòng hải lưu lý thuyết, tuyên ngôn, tư trào thi ca lớn, đang là mốt tân kì trên thi giới. Ngay cả tiếng khóc trong thơ, Bạch Diệp cũng gần như tiết chế đến mức im lặng. Sức mạnh và sự quyến rũ trong thơ chị là sự tiết chế, để đạt được cảnh giới đó, trong cuộc đời phải là người chấp nhận những hi sinh. “Thời gian như chiếc lưới - Vớt nhầm hạnh phúc khổ đau - Dấu vết này là vĩnh cửu - Những lời đã thốt hôm qua - Em đốt ngọn lửa nhỏ - Run rẩy góc phòng tối - Một tồn tại nơi đây - Như chậu hoa trên ban công - Biết chắc - Mùa đang xa dần...” [Thầm thì].

Cảm xúc, thân phận, ý nghĩ của chị đặt chìm dưới hệ thống hình tượng ẩn dụ, lời lẽ cũng giản dị hết sức có thể. “ai cũng có thể chạy - ra cánh đồng một mình - Sao cứ phải đau buồn đến thế - Sao cứ mãi - đau buồn đến thế” [Mở mắt tràn bóng tối]. Những câu hỏi giản dị mà khắc khoải, cứ ám riết vào đầu óc của người đọc như một sự thổn thức, một nỗi đau ám thị bất khả giải. Chúng ta có thể chạy đi để tìm những cánh đồng mới, vượt qua thung lũng của đau thương, nhưng tại sao trong suốt cuộc đời mình, ai cũng ở lại mãi trong một/nhiều nỗi đau như thế? Bởi vì, đó chính là tình yêu. Tôi không là người chủ trương khổ hạnh trong tình yêu, nhưng tôi vẫn tin rằng Chúa vĩ đại bởi vì người trao tình yêu cho chúng ta từ nỗi đau và cái chết đầy tính hi sinh trên thập giá. Nếu Chúa không chứng nghiệm cái chết và nỗi đau ấy, người vẫn sống hạnh phúc bên gia đình, liệu tình yêu của người có còn thiêng liêng như thế hay không? Nếu anh và em yêu nhau, chúng ta vẹn toàn trong hôn nhân và hạnh phúc vĩnh viễn, đó là một tình yêu khuyết tật hay tình yêu viên mãn? Sự dang dở, đớn đau trong tình yêu, đôi khi là một giá trị. Chúng ta yêu nhau không phải để trốn chạy và minh giải nỗi cô đơn, ta yêu nhau là để hiểu hơn về nỗi cô đơn, làm sâu sắc hơn nỗi cô đơn của đời mình. Bạch Diệp hiểu và tin vào điều đó. “Chúng ta cô đơn giữa khu rừng đời mình - Chúng ta cô đơn trong vòng ôm của mình...” [Đừng hát khi lên đồi].

Những khoảng trống và hình ảnh thường tình trong thơ chị là một sức mạnh, một thứ quyền uy của cái vắng mặt, cái không được (phép) nói ra. “thứ này nghẹn - không thể nuốt - nó sẽ bấn loạn thành màu gì - chẳng phải đông không phải hè - Tôi bỗng ghen với sự rạch ròi của cỏ” [Cocktail]. Thơ Bạch Diệp có thế mạnh trong việc gợi ra sự mơ hồ, chúng ta tưởng như là nó ở đó, nhưng nó không hiện hữu hình hài. Thứ ma mị này không rạch ròi như cỏ, không bao giờ như thế, mà nó là những tâm sự thầm kín, là nỗi đau của riêng mình. Phàm là đàn bà, trong tình yêu, ai chẳng rơi vào trạng huống tinh thần như thế một vài lần trong đời.

Bạch Diệp chưa bao giờ, không bao giờ là một nhà thơ theo chủ nghĩa nữ quyền (feminism), chị là một nhà thơ nữ tính (feminility). Thiên tính nữ trong thơ chị là điểm mạnh mà cũng là điểm yếu. Mạnh về cảm xúc, yếu về tư tưởng. Nhưng phàm là kẻ yếu đuối, thất bại trong tình cảm, người ta mới tìm đến thi ca. Những kẻ hùng mạnh, thành công ngoài kia, đã đi theo những con đường khác, con đường của vương quyền, của thụ hưởng hay của sự thống ngự về giới. Nỗi đau khổ nữ giới trong thi ca là một nỗi đau đớn có tính chất thanh tẩy (catharsis), nó cứu rỗi được nhân vị đàn bà. Suy cho cùng, đàn bà luôn là phe nước mắt: “Em mang những sẹo trên ngực - Đứng bên bờ sâu - Anh bao nhiêu trăng không đầy - Em bao nhiêu mưa không trôi” [Sắp hết thì giờ rồi]. “Vệt mascara trên chiếc khăn màu trắng - Em không thể vò sạch, bằng nước mắt - Anh hiểu không” [Dấu vết]. Bạch Diệp có lẽ đến muộn trong thi giới, bởi vì chị cần có thời gian tích tụ đủ nỗi đau nhân sinh, nỗi đau tình yêu, nỗi đau làm người (đàn bà).

Đọc thơ chị, ta thấy rõ chân dung của một người đàn bà cô độc. Người đàn bà ấy khao khát yêu thương, tận hiến, hạnh phúc và người đàn ông là có thật, song không được trọn vẹn bao giờ. “Em muốn khóc lúc anh ngồi lặng - Cô độc xoay lưng như con sói trong chiều - Muốn ôm anh khi nghe anh hát - Muốn chạm tay thật khẽ viền môi - Mưa che sân khấu cho người - Em hết nằm nghiêng lại nằm co - Anh như chiếc phao ai cất trên trần nhà - Mưa ngập em - Em chới với nhìn - anh ngập trong người khác...” [Điên]. Bạch Diệp thích hội họa, có sự am hiểu và chuyên môn về hội họa, vì thế thơ chị kiệm lời mà mạnh về hình ảnh và cảm giác. “Cô độc xoay lưng như con sói trong chiều” là một hình tượng đậm hình ảnh của hội họa siêu thực.

Khi đọc tập thơ của chị, để viết những dòng rời rạc này, bất chợt tôi nhớ đến Phạm Phú Phong với lời tựa đầy trăng/tài hoa trong một quyển phê bình của ông: “Ta đến với văn chương như một cuộc ngoại tình”. Suy cho cùng, chẳng ai sống nhờ thơ và kiếm tìm vinh quang với thơ ca. Thời đại ấy, nếu có tồn tại thì đã trôi qua từ rất lâu rồi. Làm thơ là tâm sự với mình, nói với mình, để hiểu mình mà thôi. Mọi cuộc tình với thơ ca đều là cuộc ngoại tình giữa cuộc đời này. Nơi ta được sống riêng, sống trong bí mật, sống vượt những thường nhật áo cơm của cuộc đời ô trọc. Bạch Diệp dường như yêu tha thiết trong thơ chị, một tình yêu lý tưởng, phi thực. Anh ở đó mà không cần hiện diện. “Em muốn chạm vào ngày - chỉ để biết - anh vẫn luôn ở đó - tồn tại - mà không cần hiện diện...” [Một ngày trôi không từ biệt]. Dùng cái không để vẽ nên cái có là một năng lực phi thường của thi ca, phương cách duy nhất để họa nên cảm giác mà lý trí dường như bất lực. Người đàn ông nam tính lý tưởng này, chàng hiện hữu trong sự nam tính bí mật: “Gió mê muội như đêm - như em - nhận biết khuôn mặt anh trước khi trời sáng - sự đụng chạm mềm mại - phủ tấm chăn cho hai người cô độc - em sẽ nhớ cho đến chết - vĩnh cửu những dấu vết” [Lúc năm giờ chiều]. Những “dấu vết” và “sự đụng chạm” ấy là vật chứng cho tình yêu, và là vật chứng cho sự tồn tại đàn bà của chị. “Anh” hiện hữu trong sự không hiện hữu, mà cũng bởi vì không hiện hữu (trong đời thực) nên anh luôn hiện trong thơ của chị) như một sự phóng chiếu những khát khao, ẩn ức (refoulement). Anh hiện diện chói nhòa, mặc khải trong thơ chị. “em sẽ không nhắm mắt - khi ngủ - sẽ không thể nhìn - khi thức - bất kì ánh sáng nào - ngoài khuôn mặt anh” [Hay là chúng ta ra biển]. Hình tượng anh có hào quang của những thiên thần. Bạch Diệp chỉ thực sự mạnh mẽ khi nàng được sống trong tình yêu, một tình yêu trong mơ mà chị hằng khát khao được sống trải: “Em đã bắt đầu câu chuyện này vào một đêm tháng tư - giọng nói của anh tan cùng đất nâu với tiếng rì rầm của trái cây mùa lên men nhẫn nại trong vườn - đừng thức tỉnh em - em luôn mất ngủ vì nỗi ám ảnh nhớ anh - mưa đã đến đây rồi - trốn vào đâu cũng ướt” [Hạt sương]. Tôi nghĩ đây không chỉ là một trong những câu thơ hay nhất của tập thơ này, của sự nghiệp thi ca Bạch Diệp nói chung, mà còn là của thi đàn mươi năm đầu thế kỉ XXI này. Những câu thơ hay trong sự giản dị, nói những điều thường tình mà không phải ai cũng có thể nói ra, dù ít nhiều trong cuộc đời chúng ta đều nghiệm trải những trạng huống tinh thần như thế, những tình yêu như thế.

Nỗi niềm tưởng rất riêng Bạch Diệp cũng là của đàn bà, ấy là không thể đi hết con đường mộng tưởng. Những trì níu thường tình, những cương tỏa trách nhiệm, sẽ kéo chị về với thực tại. Chị đã viết như một lời thú tội với chính mình. “Khi những chiếc ly đã úp lên giá - Người đàn bà kì cọ bàn tay - Bằng một thứ nước tẩy - Của sự ám ảnh gột rửa - Cho đến tận bình minh”, bấy nhiêu ấy cũng chỉ để dặn lòng: “Khi nhóm bếp đừng nên khóc”.

Hiểu thông điệp của những câu thơ trên như thế nào là cả một sự nghiệp trải trong cuộc đời. Xinh dành riêng cho bạn đọc thưởng lãm điều bí mật ấy.

Y.T  
(TCSH394/12-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.