Cha tôi - cố họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung

09:32 23/01/2013

NGUYỄN THỊ THỐNG

Tôi tên là Nguyễn Thị Thống - con gái của cố họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung. Tôi rất vui mừng, xúc động và thấy rất may mắn được tới dự buổi lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của bố tôi tại thành phố Huế vừa qua do Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế tổ chức. Tới dự buổi lễ này, tôi được nghe và nhớ lại những kỷ niệm về bố tôi. Những kỷ niệm không bao giờ phai mờ trong ký ức.

Chân dung cố họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung - Ảnh: TL


Ông nội tôi là ông Nguyễn Đỗ Mục. Một nhà nho yêu nước, ông đỗ tú tài khóa Kỷ Dậu (1909) đời vua Duy Tân. Ông là một nhà văn, một dịch giả. Sau cách mạng tháng Tám (1945) cho đến khi qua đời ông công tác ở Bộ Quốc phòng, chuyên lo việc phiên dịch các tài liệu quân sự và chính trị. Ông dịch nhiều và viết nhiều, với những bản dịch “Đông Chu liệt quốc” và “Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải” ông đã được công nhận là người có công trong việc dịch thuật và biên khảo trong thời kỳ quốc văn Việt Nam vẫn còn non nớt. Nay ở khu An Hòa, Cẩm Lệ thuộc thành phố Đà Nẵng đã có con đường mang tên ông. Ông Nguyễn Đỗ Mục là con của cụ Nguyễn Đình Dương - tức là cụ nội của tôi (cụ đã đỗ Hoàng giáp) từng làm Án sát Hưng Yên. Bố chánh Quảng Bình. Biên lý Bộ Lại.


Ông ngoại tôi là ông Nguyễn Hữu Tiến, ông là một nhà nho yêu nước, nhà nghiên cứu văn học. Các công trình nghiên cứu của ông là những chuyên luận về phong tục, luân lí tôn giáo và văn chương Trung Quốc. Ông có công rất lớn và sớm nhất trong việc giúp người Việt Nam am hiểu các học thuyết, văn chương, triết lí Trung Quốc học. Ông còn là một tác giả trong những danh nhân, thi sỹ Việt Nam. Ông nội tôi và ông ngoại tôi là đôi bạn nhà nho rất thân nhau và họ đã kết làm thông gia. Bố mẹ tôi kết duyên với nhau cũng là do sự sắp đặt của ông bà tôi, theo quan niệm xưa “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” mà nên duyên vợ chồng .

Sau khi bố mẹ tôi sinh được 3 người con đầu, thì kháng chiến bùng nổ. Bố tôi đi kháng chiến, 9 năm bặt tin vợ con. Mẹ tôi ở nhà, nuôi các con nhỏ, trong cảnh vất vả thiếu thốn của người phụ nữ xa chồng, không có sự động viên của người chồng ở bên. Khi hòa bình lập lại, cuối năm 1954 bố tôi từ kháng chiến trở về, bố mẹ tôi gặp lại nhau sau 9 năm xa cách và cuối năm 1955 bố mẹ tôi sinh thêm 2 cô con gái sinh đôi, là tôi và em gái tôi, cả họ hàng nhà tôi đều nói: bố mẹ tôi đẻ “truy lĩnh” và bố mẹ tôi đã đặt tên cho 2 con gái sinh đôi là Thống và Nhất. Khi tôi đi học và đi làm đã nhiều lần bạn bè và mọi người có hỏi tôi: “Vì sao con gái mà lại tên là Thống?” Tôi về hỏi mẹ, mẹ tôi nói: Đó là tên do bố tôi đặt. Mẹ tôi cũng không thích cái tên này lắm, mẹ tôi có nói với bố tôi là: “Nếu thích đặt tên con là Thống Nhất thì đặt một đứa tên là Thống Nhất và một đứa tên là Hòa Bình thì hay hơn”. Nhưng bố tôi nói: “Bây giờ đất nước đã hòa bình rồi, tôi chỉ mong đất nước thống nhất nữa thôi, hai miền Nam Bắc phải được thống nhất làm một, nên tôi muốn đặt tên con là Thống Nhất”. Và cuối cùng bố mẹ tôi đã đặt tên cho hai đứa chúng tôi là Thống và Nhất.

Nhớ đến ông, tôi nhớ đến một người cha rất có hiếu với bà nội tôi (vì khi chúng tôi ra đời ông nội tôi đã mất), bố tôi chăm sóc bà tôi rất chu đáo và khi nói năng với bà thì rất nhẹ nhàng, lễ phép.

Ông là người cha nghiêm khắc nhưng cũng rất mực yêu thương con cái, ông độ lượng và khoan dung với các con mỗi khi các con mắc lỗi. Ông luôn dạy các con phải biết yêu thương mọi người, nhất là đối với người nghèo. Tôi còn nhớ: có lần ông lên thăm hai đứa sinh đôi chúng tôi đi sơ tán ở Đan Phượng (Hà Tây), ông mua hai chiếc khăn rằn quàng cổ cho hai con. Nhưng đến nơi sơ tán của con, ông thấy con gái ông chủ nhà, áo còn chưa đủ ấm, tự nhiên tôi thấy ông có vẻ lúng túng, cứ như mình là người có lỗi với các con vậy. Tôi vẫn còn nhớ ánh mắt hiền dịu ấy của ông đến tận bây giờ, ông đã nói với chúng tôi: “Chị Tính (con ông chủ nhà) phải đi chăn trâu ngoài đồng, mà trời lạnh như thế này... các con nhường cho chị ấy một chiếc khăn nhé, các con dùng chung một cái, khi nào có dịp bố sẽ mua thêm một chiếc khác, bố sẽ gửi lên cho các con sau nhé”. Tôi biết, bố tôi cũng phải dành dụm, với đồng lương ít ỏi của thời kỳ bao cấp mới mua được một chiếc khăn đó cho con mà ông lại phải hỏi ý kiến các con để nhường một chiếc cho con gái ông chủ nhà, và lẽ tất nhiên là chúng tôi cũng đồng ý theo ý kiến của bố tôi.

Ông thường dạy chúng tôi những đức tính trung thực, thật thà, thẳng thắn, không xu nịnh, luồn cúi nhũng kẻ có chức, có quyền không có đạo đức, phải khiêm tốn với mọi người, chịu khó học hỏi... Những đức tính ấy, chính ông là tấm gương để các con noi theo. Họ hàng nhà tôi vẫn kể lại rằng: Ông ấy (bố tôi), là ông to ở đâu thì không biết, nhưng cứ về đến quê cha đất tổ thì ông thật là hiền lành, giản dị khiêm tốn và rất mực lễ phép.

Ông là người không thích nhận quà biếu xén hay đút lót. Tôi còn nhớ: Lần đó bố tôi ốm nặng, mọi người ở cơ quan (Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) mang quà đến biếu, mà quà lúc đó chỉ là cân đường, hộp sữa, chứ không như bây giờ, bố tôi đều không nhận, chỉ cám ơn rồi bắt họ mang về. Họ không biết làm cách nào bèn bảo nhau để tiền vào phong bì, mang đến đưa cho mẹ tôi và nói: “Chúng cháu gửi bác để bác bồi dưỡng cho bác trai, vì chúng cháu không biết mua gì và xin bác đừng nói với bác trai ”. Khi bố tôi khỏi bệnh, đến cơ quan họp, nghe họ báo cáo về tiền quỹ của cơ quan (vì lúc đó bố tôi là giám đốc của Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) thì bố tôi mới biết được chuyện họ đưa tiền cho mẹ tôi. Hôm đó về đến nhà, tôi thấy bố tôi rất giận mẹ tôi, đến mức độ ông đập bàn, đập ghế bắt mẹ tôi phải mang tiền lên cơ quan, trả lại bằng được mới thôi.

Đối với đất nước ông luôn cố gắng hết lòng cống hiến sức lực của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Ông say sưa làm việc và nghiên cứu đến quên cả bản thân mình, ông có thể đọc sách và nghiên cứu suốt ngày đêm mà không để ý gì đến xung quanh mình có ai, ông quên cả thời gian, quên cả giờ ăn và giờ ngủ của mình, nếu không có vợ con nhắc ông ăn hay ngủ thì có lẽ ông cũng quên luôn.

Tôi nhớ, lần mà bố tôi được tham gia vẽ mẫu để xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thì bố tôi miệt mài vẽ suốt ngày đêm, ròng rã mấy tháng trời, sửa đi sửa lại mãi bản vẽ của mình, ngắm đi, ngắm lại, không biết bao nhiêu lần, mà thấy ông vẫn chưa ưng ý. Hôm cuối cùng, đến hạn nộp bản vẽ, hôm đó, gần như bố tôi thức trắng đêm để hoàn thành cho kịp. Tôi thấy ông gầy hẳn đi nhưng ông vẫn miệt mài làm việc để sáng hôm sau kịp nộp cho hội đồng lựa chọn. Cuối cùng, mẫu vẽ hoa sen được vẽ cách điệu, mang đầy tính mỹ thuật của dân tộc Việt Nam do ông vẽ đã được hội đồng chọn để làm diềm trang trí xung quanh lăng kính mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đang nằm.

Có những lúc bố tôi ngồi say sưa làm việc, đọc sách, hoặc nghiên cứu, khách vào gõ cửa mãi mà ông không hề hay biết gì, vợ con ông lại phải gọi ông mấy lần, để báo cho ông biết là có khách, lúc đó ông mới giật mình như vừa chợt bừng tỉnh, ngẩng đầu lên chào đón và tiếp khách. Ông có cách chào và tiếp khách thật niềm nở, thân mật và gần gũi lạ thường đối với mọi người...

Ông có niềm đam mê mua sách và đọc sách. Mỗi khi ông dư dả được đồng nào là ông lại mua sách để đọc và nghiên cứu. Những lần được ra nước ngoài công tác, ông cũng tranh thủ tìm mua những quyển sách quý. Mỗi khi ông ở nước ngoài về, ngoài mấy quyển vở giấy trắng thơm phức và hộp bút chì màu ông mua về làm quà cho con (vì chúng tôi rất thích nó, mà hồi đó, những thứ này ở trong nước không có) thì còn lại là cả một vali sách nặng trĩu. Tôi có cảm giác rằng: có lẽ, nếu còn tiền mua sách và còn có thể khuân về được thì bố tôi còn tranh thủ mua thêm sách mang về.

Trong nhà tôi, quanh nhà chẳng có tài sản gì ngoài sách của bố tôi, những tủ sách lớn để quanh tường nhà không còn trống chỗ nào, tủ hết chỗ để sách, ông lại lật cái giá vẽ to ra giữa nhà, ông chồng lên, để làm bàn để sách, sách để cứ cao ngập đầu người. Ngay cả khi đang ốm nặng ông cũng không nghĩ đến mình cần phải có tiền để mua thuốc mà có bao nhiêu tiền là ông lại gửi vào Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) để nhờ anh em, bạn bè mua sách gửi ra cho ông, vì lúc đó Sài Gòn mới giải phóng, trong đó có nhiều sách hay và quý hơn ở ngoài Bắc. Cho đến lúc ông mất, xung quanh giường ông nằm là cả hàng chồng sách mà anh em, bạn bè, mới gửi từ trong Nam ra cho ông, có nhiều cuốn ông vẫn chưa kịp đọc. Khi bệnh rất nặng, ông vẫn lạc quan say sưa nghiên cứu.

Đến nay bố tôi đã đi xa được 35 năm nhưng hình ảnh và những kỷ niệm về ông vẫn như còn nguyên vẹn, không bao giờ phai nhạt trong tâm trí tôi.

N.T.T
(SH287/01-13)









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)

  • ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).