Câu chuyện về nhân vị trong tiểu thuyết ‘Một ví dụ xoàng’ của Nguyễn Bình Phương

14:39 30/12/2021

LÊ THỊ HƯỜNG  

Nói một cách kinh điển, ở tiểu thuyết, cái kết được xem là “sức mạnh của cú đấm nghệ thuật”(D. Furmanov).

Bắt đầu từ đoạn kết, có thể nói, sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương có sự dự phần của vô thức; như nhà văn đã trả lời phỏng vấn: “- Tôi chìm vào một cõi khác. Lúc viết tôi chìm vào góc cảm xúc không lý giải được. Lúc đó chỉ có tôi với tôi. Tôi không diễn kịch. Tôi cứ ngồi với trang giấy viết… Viết như thằng rồ”. Với Một ví dụ xoàng, Nguyễn Bình Phương đã làm lạ, làm khác với nhiều tiểu thuyết vốn-đã-khác của ông. Nhà văn nhọc nhằn thai nghén, nặn tạc những con người đặc dị trong một cõi nhân gian nhàu nhĩ. Viết như vắt kiệt mình. Như đau đớn sinh nở. Chẳng xoàng. Khi “một bãi nước đái” cũng chìm nổi những kiếp phận. Như lời mở đầu tác phẩm: “Trong lỗ tai chứa bóng tối lùng bùng của những lời bí mật, có vô vàn câu chuyện…”. Một ví dụ xoàng là câu chuyện về những cái chết và sự vô nghĩa lý kiếp người; câu chuyện về sự băng hoại đạo đức và cõi nhân sinh nhàu nát; câu chuyện về một cõi tâm linh nhân quả. Tất cả nhộn nhạo như “những âm thanh ồn ào lăng mạ trong tai”.

Tự sự về một cõi nhân sinh nhàu nhĩ

“Và dòng kết viết: Chiều cuối năm giống như một người khổng lồ vừa đái xong, giờ khoan khoái, thư thả bó gối ngồi ngắm biển của mình”. (Nguyễn Bình Phương). Một ví dụ xoàng đạt đến cái cực hạn của hậu hiện đại. Tính cực hạn thể hiện trong việc lựa chọn ngôi kể, vị trí của người kể chuyện, qua một cấu trúc phân mảnh đa âm. Việc xếp chồng các câu chuyện, các lớp diễn ngôn khiến những vấn đề của quá khứ, của hiện tại đồng hiện, mở rộng. Những sự kiện, những chi tiết thoáng qua đều mang sức mạnh của một câu chuyện. Tất cả được kết hợp chặt chẽ trong một nghệ thuật tự sự đa bội điểm nhìn. Xoay quanh vụ án của Sang là “vô vàn câu chuyện” khác được thấy, được nghe/ ghi âm, được hiện hình từ ảo giác. Mỗi chuyện đều đồng đẳng và có giá trị tự thân. Chuyện thời bao cấp, chuyện giết người, chuyện loạn luân, chuyện biển Đông... Quyền lực và tự do. Bản năng và vô thức. Cõi trần gian và một cõi khác/cõi trời. Lối tự sự phân mảnh, tung hỏa mù các góc nhìn thể hiện quan niệm của nhà văn về nhân sinh, vũ trụ. Vũ trụ mang nỗi đau của máu. Một cõi nhân sinh nhàu nát, hỗn độn, phì đại, trương nở phía này, thu hẹp phía kia.

“Trong vô vàn câu chuyện” đó, có chuyện này, chuyện về Sang, một con người “giữa khung cảnh mơ mờ nhuần nhuyễn, nổi hằn lên hệt như cái hình bị cắt dán chơi vơi, không nguồn gốc, không lí lịch”. Câu chuyện quẩn quanh bên cái chết của một anh tiến sĩ giỏi, đi học từ Liên Xô về, vì “buôn lậu” bốn cân chè phải đi đến tình huống bắn người để tự vệ và bị kết án tử hình. Ngẫm ra, tình huống ấy, cái chết ấy chỉ là cái điều xoàng xĩnh vẫn diễn ra; như lời nguyên chánh án tòa án tối cao: “Mà này, cái vụ của cậu tiến sỹ ấy mà, xét cho cùng, cũng nhí nhố cả thôi. Nếu mỗi người là một ví dụ, thì cậu ấy nó là cái ví dụ xoàng, hết sức xoàng. Thế nhé”. Tuy vậy, chung quanh Sang là những sự kiện của một thời đoạn lịch sử còn tươi mới, liên quan đến từng số phận và để lại nhiều dư chấn. Quá khứ và hiện tại đan cài, biến cái ví dụ xoàng là Sang thành câu chuyện lớn xuyên suốt và cốt lõi, là số phận con người, vấn đề tưởng cũ nhưng luôn mới trong văn chương ở mọi thời kỳ, ở bất cứ đâu.

Cấu trúc bề mặt của cuốn tiểu thuyết theo lớp lang, phần đoạn; nhưng cấu trúc thời gian đan xen, đồng hiện, phi thực. Trong những câu chuyện được kể/nghe ở thì hiện tại vang lên những câu chuyện từ quá khứ, và ngược lại. Vấn đề của hôm qua (từ nhân vật Sang) và vấn đề của hôm nay (từ khách - con của Sang; cùng với những người đang hiện diện chung quanh anh) bện xoắn vào nhau. Câu chuyện về Sang được kiến tạo nhiều lần. Mỗi mảnh vỡ lượm lặt được từ nghe, thấy và linh giác tự nó đã là những câu chuyện tươi ròng. Sang có mặt ở cõi này như một số phận. Anh tiến sĩ về cõi kia như một định mệnh oan khiên (“…người có vẩy chú ạ, trông như một con rồng bị giết… ngực trái bị phá toát ra”; “Chú ấy không muốn để lại dấu tích gì về mình. Chú ấy muốn biến mất tăm mất tích luôn, sạch sành sanh luôn”). Mỗi lời kể là một mảnh của con người Sang, đồng thời cũng là tự sự về chính cuộc đời người kể. Các tiểu tự sự đan xen. Nhà văn để cho những con người vô danh nói về sứ mệnh của văn chương (“Với đám trí thức các chú thì phúc đức là ở chữ. Chữ mà dữ thì mất phúc, đúng không?” - lời một người xem án; “Cậu là nhà văn cậu cho chị xin một lời. Cậu cũng lắc đầu hả. Thế mà chị cứ đinh ninh nhà văn thì trả lời được tuốt” - lời con gái người dẫn tù); để cho trí thức nói về ma lực của vàng; bác sĩ nói về chuyện tâm linh, báo mộng; phụ nữ loạn luân nói về tình yêu; kẻ thủ ác nói về nhân quả; đàn ông bỗ bã về nữ quyền (“Đàn bà thế hệ chúng tôi nó ngu như con gà mái ấy, cứ bị vật ra là chửa, mà chửa là đẻ, chả biết nạo thai nạo thiếc gì” - lời phu huyệt). Lời kể trong lời kể. Đan xen và đánh tráo mọi điểm nhìn. Càng về cuối truyện, sự chồng chéo giữa quá khứ và hiện tại càng dày đặc. Sự nhòe lẫn giữa các lời kể khiến câu chuyện về Sang trở thành bản hòa âm về một cõi nhân sinh nhàu nát, một thế giới mọi thứ đều trở nên phi lí, đa nhiễu thông tin, nhập nhằng các chuẩn mực đạo đức. Những con người trong cõi nhân sinh ấy sống khổ chết đau. Ít có nhân vật nào lành lặn. Họ bị chèn ép bởi quyền lực, bởi mưu sinh, và muốn vượt thoát. Nhân vật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương không ráo riết truy tìm nhân vị như những phóng thể hiện sinh. Tuy vậy, họ cũng lạc lõng trong thân phận làm người. Sang là một ví dụ. Anh là một trí thức giỏi, nhiều tài năng nhưng vì cá tính đã bị cô lập hóa, và vì mưu sinh đã dần thay đổi. Sang vừa giống tập thể chung quanh anh trong hoàn cảnh ấy, vừa là một cái khác cũng trong hoàn cảnh ấy. Bi kịch thân phận trí thức phải chăng ở điểm vừa giống vừa không giống này? Nguyễn Bình Phương ẩn giấu điểm nhìn của nhà văn - người viết tiểu thuyết này. Tác giả không luận thuyết, không bày tỏ quan niệm, không nhấn mạnh, không để lộ mỹ cảm nghệ thuật. Tất cả chỉ do người khác kể. Những gì nghe, thấy và ảo giác đã làm nên một câu chuyện khác, ẩn hơn, chìm hơn, không hề xoàng xĩnh; đó là câu chuyện về nhân vị trí thức và phi lí phận người.

Đảm nhiệm vai trò chính trong tác phẩm là Khách - nhà văn, đứa con trai nhỏ ngày trước đã háo hức giục cha “bố mang súng đi cho nó oai” (như một định mệnh), và ngày cha bị kết án tử hình vẫn đi học và chẳng hay biết gì. Ký ức về cha chỉ là một khoảng trắng. Khách đi, ghi chép, thu âm, nghe những câu chuyện khác nhau về cha mình và cái chết của cha. Những gì anh nghe đã dựng lại chân dung người cha, một trí thức “nổi loạn”, vượt khung để khẳng định bản thể. Những gì Khách thấy lại vẽ nên diện mạo đời sống đương đại (từ phòng mạch khám phá thai của vợ anh, căn phòng khách đồ sộ của viên nguyên chánh án, ngôi biệt thự đồ sộ của trưởng công an thành phố…) mà anh là người trong cuộc, người cùng thời, chứng kiến xã hội thực dụng không thiếu những điều phi lí. Từ những gì nghe, thấy, kể cả trong mơ, cái chết của Sang được chiếu sáng từ nhiều góc nhìn (lời kể của nguyên chánh án, phu huyệt, thành viên đội thi hành án, một người xem vô danh, bạn thuở ấu thơ, nguyên trưởng phòng tổ chức v.v). Lắp ghép lại, cái ví dụ xoàng bỗng trở thành điển hình, đại diện cho biết bao phận người trong một cõi nhân sinh hỗn độn, ở đó cái phi lí trở thành hợp lí. Tự sự đa bội người kể chuyện không hẳn mới, nhưng Nguyễn Bình Phương đã làm một khác lạ đáng kể; quá nhiều điểm nhìn (đáng tin cậy lẫn bất tín) - những điểm trùng khít làm nên cá tính một con người, những điều vênh lệch lại làm nên chân dung một cõi người.

Anh tiến sĩ trở thành hiện thân của một thời đoạn lịch sử với những hệ quả nặng nề. Sang là anh trí thức dám khẳng định nhân vị, dám lựa chọn một cách sống anh cho là hợp lí dẫu lệch pha với cái phi lí của thời bao cấp. Sang từng mơ ước một mái ấm trong những ngày du học (“cái vườn rau đánh luống xôm xốp đều tắp”, “cái chuồng gà đầy tiếng lích nhích của lũ gà con”, cái võng giăng dọc nhà với cái tiếng kèn kẹt nhay nhứt của nó”). Anh cũng tạo dựng được một mái ấm, nhưng khi xã hội biến loạn bởi vàng Sang không thể đứng ngoài. Đời sống vật chất như một thỏi nam châm hút và đẩy. Sang bị chính cuộc sống hút vào rồi lại bị đẩy bật ra không thương tiếc. Cũng như Uyên, trong bệnh hoạn bản năng bố chồng con dâu, trong cuộc sống chung với người chồng sống dở chết dở, cô cũng mơ về “một không gian màu lục tỏa sáng bởi những cái cây xanh óng”.

Chung quanh vụ án chấn động đất trời chồng lấn nhiều câu chuyện về một cõi người méo mó, bầm dập. “Thành phố rùng rùng biến loạn bởi vàng”. Những hằn thù chém giết kể cả yêu thương cũng tính theo vàng. Cả một cõi trời vần vũ bởi cái thứ vàng óng, ma mị, làm thay đổi mọi chuẩn mực. Cả một cõi người nhộn nhạo dục vọng, bản năng không được chế ngự. Chuyện mưu sinh, chuyện tính dục, chuyện giết người được làm, nói, kể một cách bình thản. Những cái chết cận cảnh, những sex loạn luân cực điểm thú-người. Ông Chính là ví dụ khác; từ anh kiểm lâm lên đến chức vụ phó chủ tịch thành phố, một đời quyền lực, ham hố, dâm đãng, cuối đời trở thành lão già rệu rạo ngồi lẫn trong chập choạng tối, miệng chảy dãi, lảm nhảm về nhân quả. Việc phạm tội ác của ông Chính là lí trí thuần túy, hành vi loạn luân với các con dâu là bản năng và những lảm nhảm, cáu gắt cuối đời có sự dự phần của vô thức. Ở nhân vật này, hành vi tính dục cũng là biểu hiện của cái ác. Khi đương chức lão ức hiếp cả hai cô con dâu. Khi cái mùi già bắt đầu toát ra từ thân xác thì cái hình hài quặt quẹo ấy vẫn chưa buông bỏ dục lạc. Cuộc loạn luân khốn khổ khốn nạn của bố chồng và con dâu, bên trong là đứa con/người chồng dở điên dở tỉnh (hoặc trước những bức ảnh thờ nhang khói) là kiếp nạn cuối cùng của một con người.

Tự sự về một cõi tâm linh ứng nghiệm

Nguyễn Bình Phương vẫn giữ lối viết dữ dội từ Thoạt kì thủy, Mình và Họ. Hồn. Giấc mơ. Điên dại người. Điên dại thú tính. Cõi nhân sinh chộn chạo, phì đại, vô vàn chuyện bỗng như “lép” đi trước cõi trời lồng lộng. Thiên nhiên vần vũ tâm linh. “Cả bầu trời giống như một chậu xà phòng sủi bọt. Mỗi khi gió ào qua, những cơn gió đầy ngẫu hứng, quầng xà phòng ấy lay động nhòa đi, các đốm trắng chực dan díu vào nhau, nhưng rồi vẫn không thể kết dính thành mảng, mà cứ li ti trong nỗi mong manh rời rã”. Dưới cái nhìn của thuyết vật linh, vũ trụ không còn yên tĩnh. Cả một cõi tâm linh mờ ảo, linh diệu - thiên nhiên, gió sương máu không thực lại trở thành thực chứng cho nhân quả. Máu. Máu nhuộm đất trời, máu ám ảnh dai dẳng. Máu chu du vòng sinh tử. Máu từ những cận cảnh tử tù bị hành quyết, ngực vỡ toang hoác, mắt không nhắm, không gian phủ trùm “sự hằn thù của linh hồn”. Máu nhuộm cả đồi chè. Máu tràn từ những con mắt trần bị “chọc đến nát nhừ” của Ngạc. Cái chết của Bằng với khuôn mặt tràn máu từ hai hốc mắt nhân quả. Máu tanh lợm từ những bào thai bị phá hủy ở phòng khám của vợ Khách, “mùi cồn không át được cái mùi tanh tanh của da thịt bị vằm nát váng vất ở đâu đó”. Mưa. Mưa nhọc nhằn buổi hành quyết (“Mưa như vỡ trời, chú bảo mưa giông vào cuối đông đầu xuân thì chỉ có là quái gỡ chứ là gì nữa”; “Giời mưa giời gió thế này, lại sắp Tết đến nơi, đem nhau ra bắn giết làm gì”). Tính đa nghĩa của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương một phần do sức mạnh của siêu tượng. Trong Mình và Họ, tác giả lặp lại nhiều lần cổ mẫu Lửa để tô đậm cái ác, hận thù, sự hủy diệt. Trong Một ví dụ xoàng, nhà văn mượn sức mạnh của cổ mẫu Nước. Mưa thanh lọc, rửa sạch mọi hận thù, “mưa rửa hận”, mưa cũng tẩy rửa tội lỗi kiếp làm người. Sau cái chết của Bằng, trời đổ mưa, gần sáng thì mưa tạnh - “Uyên bước ra, trời đã quang quẻ, lồng lộng, …mặt hồ bừng sáng vì ánh trăng lớp lớp xối xuống”. Sau cái chết của Sang, nước làm cho siêu thoát (“Mộ có nước thì chết càng mát mẻ”; “Không có nước thì xác nó tan rữa ra thế đéo nào được” - lời phu huyệt). Cái dữ dội, bạo liệt của đất trời được nhà văn mô tả bằng một kiểu diễn ngôn vừa trần trụi vừa gợi ám, một kiểu “diễn ngôn chênh vênh về hiện thực”. Ở một số chương đoạn, qua dòng ý thức của nhân vật, nhà văn đã làm một cuộc đối thoại giữa hư và thực, giữa âm và dương, từ đó cuộc sống hiện ra nhiều chiều, đa dạng đến bất ngờ.

Vũ trụ nhìn thấu những sự thật ẩn giấu. Con mắt thiêng/thiên nhãn rọi chiếu toàn cõi nhân gian: “Lúc bắn xong thì trời nứt ra, phải nói là mở mắt mới đúng, thốt nhiên nó choàng mở ra hệt con mắt mở, rồi chiếu một cái nhìn dẻ quạt xuống xác tử tù”. Như một thế lực phán xét tối cao, con-mắt-trời thấu rõ tội lỗi của ông Chính qua cây quéo già “lay lả muôn ngàn con mắt xanh đen cú cáo…”. Cái ác lấn tràn nhưng “còn ai đó nữa biết tất cả mọi chuyện”. Nguyễn Bình Phương không nhìn sự chuyển vần của tự nhiên từ nhân học sinh thái. Với tâm thức phương Đông, nhà văn biến câu chuyện về nhân vị thành câu chuyện về cõi nhân sinh bí ẩn. Vạn vật hữu linh. Viết nhiều về cái chết, các kiểu chết, với quan niệm duy linh nhà văn nói nhiều về hồn. Trong tiểu thuyết Mình và Họ, cấu trúc văn bản truyện lắp ghép song song giữa hai thực thể độc lập là Hồn và Xác trên hai chuyến xe xuống xe lên. Trong Một ví dụ xoàng, vừa tách bạch vừa hòa nhập xác-hồn, có lúc nhập nhòe ranh giới, Nguyễn Bình Phương làm một cuộc truy vấn tâm linh, dò tìm phần bí ẩn nơi mỗi bản thể người. Motif “hiện hồn/báo mộng” lặp lại nhiều lần như một thông điệp nghệ thuật (dẫu có lúc vượt ngưỡng). Hồn/hồn ma, cái ảo hòa nhòe với cái thực dẫn dụ vào một thế giới hiển linh. Con người không chỉ hiện hữu cõi này mà còn vướng vất ở cõi khác. Hồn xác thực cho cái phi lí trong mối quan hệ người ở cõi sống. Hồn biểu trưng cho những ẩn ức, tội lỗi mờ khuất đã hiển lộ ở cõi kia. Oan khiên. Hệ lụy. Trong hầu hết tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, nhân quả là mấu chốt trong những câu chuyện về cõi người. Nhân quả là một phạm trù tôn giáo gắn liền với cuộc sống con người. Trong cái nhìn của nhà văn, tội ác và trừng phạt diễn ra ngay kiếp này, chẳng đợi kiếp sau. Những giấc mơ của ông Chính về đôi mắt “nham nhở như bị thú rừng moi”. Giấc mơ không biểu hiện “lời kêu gọi của lương tâm” (E. Fromm) mà là sự trừng phạt. Quả báo nhãn tiền. Những con mắt bị chọc mù lởn vởn ám ảnh đeo bám cha và ứng nghiệm ở con. Bằng luôn có cảm giác “mỗi bên mắt luôn có một con rắn đen nhăm nhe thúc vỡ đồng tử”; “Bằng tự nhiên cụt dần chân, mắt mù rồi chết”. Nhân quả khiến cho thế giới trở nên bí ẩn một cách đáng sợ. Suy cùng, giấc mơ, hồn, máu là những kí hiệu nghệ thuật làm gia tăng bản chất phi lí của hiện thực, đồng thời giải mã thế giới bí ẩn hiện tồn.

Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là những tự sự về cái chết mang chứa suy nghiệm về cái sống. Giữa cõi trời ngập ngụa oan khiên, giữa cõi người nhàu nhĩ, giữa cái chết ngự trị thì sự sống, cái đẹp vẫn lấp lóe. Nên Khách, nhà văn đã lần mò truy tìm quá khứ, để ghi lại, lưu giữ những điều thiện lành. Nên những phận đàn bà vong thân hoặc bị đẩy vào lối sống nhục thể, như Uyên, Vân, Hoa vẫn khao khát một điều gì đấy trong lành. Nên những con người thô lỗ, nói năng sỗ sàng, tục tĩu lại giữ được thiện tâm. Đằng sau thế giới huyền hồ đó là một mảng hiện thực tươi rói sắc màu. Thế giới nhân vật của Nguyễn Bình Phương đầy cá tính, đối chọi nhau, bổ sung cho nhau, soi bóng vào nhau bộc lộ tất cả sự phức tạp trong tính cách con người đương đại.

L.T.H  
(TCSH43SDB/12-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH